Tâm trạng người chiến sĩ cách mạng trong Khi con tu hú (10 mẫu)
Bài thơ Khi con tu hú đã khắc họa thành công tâm trạng ngột ngạt, bức bối, uất ức, cùng khao khát tự do cháy bóng của người chiến sĩ cách mạng. Với 10 bài Phân tích tâm trạng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Khi con tu hú sẽ giúp các em hiểu rõ hơn.
Khi nghe thấy tiếng chim tu hú báo hiệu mùa hè đến, người chiến sĩ cách mạng càng muốn phá tung xiềng xích để hòa mình vào mùa hè căng tràn sức sống, trở về với đồng bào, đồng chí yêu thương. Chi tiết mời các em cùng tải miễn phí để ngày càng học tốt mônVăn 8:
Dàn ý phân tích tâm trạng người chiến sĩ cách mạng
Dàn ý 1
1. Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu về tâm trạng người chiến sĩ cách mạng: tâm trạng ngột ngạt và khao khát tự do.
2. Thân bài
a. Sơ lược về hoàn cảnh người chiến sĩ
- Bị bắt nhốt sau khi hoạt động cách mạng
- Tâm hồn luôn khao khát ra bên ngoài song sắt: đón nhận những vẻ đẹp của đất trời, thiên nhiên.
b. Người tù cách mạng khao khát tự do, đau khổ vì bị giam cầm
- Từ ngữ mạnh: “đạp”, “ngột”, “chết”, “uất”
- Từ ngữ cảm thán: “ôi”, “thôi”, “làm sao”,
⇒ Nghệ thuật tương phản cho thấy sự đối lập giữa cảnh đất trời bao la và cảnh tù đầy, người chiến sĩ khao khát tự do cháy bỏng, muốn đập tan mọi thứ để thoát khỏi cảnh tù túng.
⇒ Bài thơ kết thúc với tâm trạng nhức nhối, là dấu hiệu báo trước sự hành động để thoát khỏi hoàn cảnh sau này (Tố Hữu sau đó đã vượt ngục để vươn tới bầu trời tự do).
3. Kết bài
- Khái quát những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của văn bản.
- Bài thơ là bức chân dung tinh thần tự họa của Tố Hữu, cho chúng ta hiểu thêm về hình ảnh người chiến sĩ cách mạng anh hùng.
Dàn ý 2
1. Mở bài
- Nói lên ý chí của người chiến sĩ yêu nước
- Khẳng định mạnh ý chí đó
2. Thân bài
- Trích các câu thơ đi kèm theo lòng quyết tâm của người chiến sĩ yêu nước.
- Bức tranh thiên nhiên đồng quê vô cùng khoáng đạt, thanh bình, nên thơ. Có bầu trời xanh lồng lộng. Có sắc vàng của bắp, sắc đào của nắng. Có cánh chim tu hú chao liệng….
- Khi nghe hè dậy bên lòng, khi nghe tiếng gọi của tự do thôi thúc để rồi người tù cách mạng, người chiến sĩ ấy bừng dậy tình yêu đời và khát vọng tự do đạp tan cánh cửa ngục tù.
- Người chiến sĩ cách mạng đã vượt lên những nỗi đau, những thiếu thốn về vật chất.
- Nỗi đau nhàu xé tâm can của người tù ấy là nỗi đau của những người mất nước, mất đi cuộc sống tự do yên bình, mong muốn được đạp đổ mọi thứ” phá cũi sổ lồng” để chiến đấu cho cách mạng, đập tan cái chế độ dã man đang cầm tù cả một dân tộc
3. Kết bài
- Nêu lên sự căm thù giặc, muốn bảo vệ đất nước của người chiến sĩ và nêu lên cảm nghĩ của mình.
Dàn ý 3
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Tố Hữu, bài thơ Khi con tu hú và tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng trong bài.
Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách viết mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân mình.
2. Thân bài
a. Khổ thơ đầu
– Bức tranh làng quê mùa hè:
- Con chim tu hú bắt đầu cất tiếng kêu náo nhiệt báo hiệu mùa hè đã tới.
- Lúa đã bắt đầu vào mùa chín vàng khắp cánh đồng gần xa.
- Những cây trái trong vườn bắt đầu ngọt và chín dần cho một mùa bội thu.
- Những nương ngô, nương bắp được thu hoạch và phơi vàng đầy sân hòa cùng ánh nắng nồng vô cùng rực rỡ.
- Bầu trời như trở nên trong xanh, rộng và cao hơn bao giờ hết, tưởng như trải dài đến tận chân trời.
- Những đứa trẻ con trong xóm làng mang diều đi thả mỗi buổi trời chiều, đôi sáo diều bay lượn trên không trung vô cùng thanh bình.
→ Bức tranh mùa hè dưới ngòi bút của tác giả trở nên vô cùng nhiều màu sắc và sức sống. Đó là bức tranh mùa hè với gam màu vàng chủ đạo tươi tắn, ấm áp hòa vào đó là tiếng tu hú ngân vang làm cho bức tranh không chỉ tĩnh mà còn động, hương quả chín làm cho bức tranh thêm thơm làm xao xuyến lòng người.
b. Khổ thơ thứ hai
Tâm trạng của người chiến sĩ khi nghe những dấu hiệu của mùa hè đã đến bên tai:
- Chân muốn đạp tan phòng: lúc này, người chiến sĩ đang bị quân giặc giam giữ trong nhà lao để tra khảo dã man, không khí mùa hè khiến trong lòng người chiến sĩ nôn nao và muốn vượt khỏi nhà giam chật chội, hôi hám, bẩn thỉu để ra ngoài với tự do, tận hưởng mùa hè xinh đẹp và tiếp tục kháng chiến vì nước nhà.
- Cái nóng của mùa hè với cái chật của nhà giam đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy vô cùng ngột ngạt, khó chịu tưởng như chết uất.
- Con chim tu hú ngoài trời cất tiếng kêu khi người chiến sĩ ở trong nhà tù càng thêm bứt rứt, khó chịu và muốn ra ngoài. Hình ảnh đối lập: không gian nhộn nhịp ở ngoài với cảnh bức bối trong tù đã làm nổi bật hình ảnh người chiến sĩ với khao khát có được cuộc sống mùa hè ngoài kia.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của bài thơ đồng thời nêu cảm nghĩ về giá trị của tác phẩm.
Tâm trạng người chiến sĩ cách mạng trong Khi con tu hú
– Tâm trạng của người tù khao khát cuộc sống mùa hè ở bên ngoài: Thể hiện qua bức tranh mùa hè. Tiếng chim tu hú đã mở ra cả một bức tranh mùa hè tươi đẹp trong tâm tưởng người tù cách mạng. Sáu câu thơ đầu miêu tả cảnh thiên nhiên mùa hè (âm thanh: tiếng chim tu hú, tiếng ve, tiếng sáo diều,… những âm thanh đặc trưng cho mùa hè báo hiệu một sự sống tưng bừng, rộn rã; sản vật: lúa chiêm chín, trái cây ngọt, bắp vàng hạt,… sản vật đang ở thời kì sinh sôi nảy nở; không gian: trời xanh cao rộng, sân đầy nắng,…). Những hình ảnh tiêu biểu của mùa hè đã được khắc họa. Tiếng chim tu hú đã thức dậy, nở ra và bắt nhíp cho sự sống: mùa hè rộn rã âm thanh, rực rỡ sắc màu, không gian bao la khoáng đạt,… trong cảm nhận người tù. Tất cả thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc sống, sự nhạy cảm với những biến động của đất trời trong tâm hồn người tù. Người tù ở đây khao khát cuộc sống mùa hè ở bên ngoài, muốn được hòa nhập với thế giới tự do ấy.
– Tâm trạng đau khổ, uất ức, ngột ngạt, khao khát tự do của người tù: Bốn câu thơ cuối, tâm trạng người tù được thể hiện trực tiếp. Tác giả sử dụng những từ ngữ gây ấn tượng mạnh để miêu tả (đạp tan phòng, chết uất), nhiều từ ngữ cảm thán (ổi, thôi, làm sao). Nhịp điệu câu thơ ngắt bất thường: nhịp 6/2 (Mà chân muốn đạp tan phòng / hè ôi), nhịp 3/3 (Ngột làm sao / chết uất thôi). Người tù cảm thấy ngột ngạt đến cao độ muốn hành động: chân muốn đạp tan phòng. Tâm trạng ấy thể hiện sự khao khát đến tột cùng cuộc sống tự do, muốn thoát khỏi căn phòng giam tù ngục của người tù.
– Tâm trạng xuyên suốt cả bài thơ là sự khát khao tự do, tiếng tu hú chinh là tiếng gọi tha thiết của tự do đối với người tù trẻ tuổi. Tiếng tu hú kêu ở đầu bài thơ đã gợi ra cho người tù sự sống tưng bừng của mùa hè, khao khát hòa nhập với mùa hè và cuộc sống bên ngoài, đến kết thúc bài thơ tiếng chim ấy khiến cho người chiến sĩ đang bị giam cảm thấy đau khổ, bực bội vì mất tự do.
– Thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại, linh hoạt đã thành công trong việc thể hiện cảm xúc người chiến sĩ. Giọng điệu thơ liền mạch, tự nhiên, nhất quán khi tươi sáng, khi dằn vặt phù hợp với tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Phân tích tâm trạng người chiến sĩ cách mạng – Mẫu 1
Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác vào tháng 7 năm 1939, khi nhà thơ trong bước đường hoạt động cách mạng đang bị địch bắt giam tại lao Thừa Phủ – Huế. Bài thơ phản ánh tâm trạng ngột ngạt của một người cộng sản trẻ tuổi sôi nổi yêu đời bị giam cầm giữa bốn bức tường vôi lạnh.
Tâm trạng ấy càng trở nên bức xúc khi nhà thơ hướng tâm hồn mình đến với bầu trời tự do ở bên ngoài. Đặc biệt giữa không gian tự do ấy bỗng vang ngân tiếng chim tu hú gọi bầy. Với âm thanh da diết đó, nỗi ngột ngạt, u uất còn dồn nén và biến thành niềm khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm hãm nổi:
Ta nghe hè dậy bên lòngMà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Mở đầu bài thơ, với tựa đề Khi con tu hú, tác giả muốn khẳng định đây là một thứ âm thanh mở ra mạch cảm xúc của toàn bài thơ. Tác động của âm thanh này đặt vào tâm cảnh của nhà thơ càng trở nên tha thiết và thôi thúc hướng đến tự do.
Ta biết rằng, người thanh niên cộng sản Tố Hữu dù bị tù đày, tra tấn nhưng không nản chí sờn lòng. Nhà thơ đã xác định:
Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểuDấn thân vô là phải chịu tù đày
(Trăng trối)
Trở lại câu thơ mở đầu của bài thơ: “Khi con tu hú gọi bầy”. Đó là cái thời điểm thiết tha và thiếu thốn khi nghe con tu hú gọi bầy, tiếng gọi trở về với bạn bè, đồng đội. Tiếng chim gọi bầy càng tăng thêm nỗi cô đơn của nhà thơ giữa bốn bức tường lạnh lẽo. Tố Hữu bị bắt giam giữa lúc nhiệt tình cách mạng của tuổi thanh xuân đang sục sôi, muốn đem tất cả nhiệt huyết để cống hiến cho cách mạng.
Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức dậy một nỗi nhớ sâu xa trong Tố Hữu. Trong thế giới tăm tối của ngục tù, nhà thơ đã huy động nhiều giác quan để hình dung, tưởng tượng đồng quê thân thuộc ngoài kia:
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dầnVườn râm dậy tiếng ve ngânBắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Một bức tranh được “vẽ” trong tâm tưởng bằng nỗi nhớ da diết. Nhịp sống của đồng quê thật rộn rã và tràn đầy sức sống. “Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”, sự vật đang vận động tiến dần đến sự hoàn thiện, hoàn mĩ (đang chín, ngọt dần). Một mùa hè đã báo hiệu, một mùa hè với những cảnh vật, âm thanh, màu sắc, ánh nắng quen thuộc.
Phải là một người tha thiết yêu cuộc sống, gắn bó máu thịt với quê hương mới có nỗi nhức nhối không nguôi đến như thế! Trí tưởng tượng của nhà thơ được chắp cánh đến với bầu trời khoáng đạt:
Trời xanh càng rộng càng caoĐôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Cũng là bầu trời xanh thân thiết của tuổi thơ với “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Giữa khoảng trời bao la, cao, rộng vài con sáo nhào lộn như nét chấm nhỏ nhoi giữa cái mênh mông của đất trời. Hình ảnh con diều sáo lộn nhào giữa từng không cũng là niềm khát vọng được tự do của người chiến sĩ cách mạng bị giam cầm. Niềm khát khao đó bị dồn nén lúc này đây đã bùng lên mãnh liệt:
Ta nghe hè dậy bên lòngMà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!Ngột làm sao, chết uất thôiCon chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Nhịp sống trào dâng, mời gọi, thôi thúc tràn ngập vào tận ngõ ngách tăm tối của chốn ngục tù, len lỏi vào tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi biến thành nỗi khát khao hành động: “muốn đạp tan phòng”.
Mạch thơ từ nhung nhớ những âm vang của mùa hạ nay chuyển sang những uất ức vì bị giam cầm. Mùa hè đến đem theo bao mong ước, hoài niệm như muốn thôi thúc người thanh niên ấy phá tan song sắt, “đập tan phòng” để đổi lấy tự do. Nhà thơ nghe ngoài trời “hè dậy bên lòng” mà không khỏi bứt rứt chân tay.
Dòng máu của lòng uất hận đang trào dâng trong cơ thể khiến ông muốn thoát khỏi không gian tù túng chật hẹp ấy để được lao ra ngoài hòa mình vào thiên nhiên rộng lớn. Ngoại cảnh đã tác động khiến nhà thơ cảm thấy bức bối, ngột ngạt, muốn lao ra thế giới bên ngoài nhưng lại bị những song sắt của nhà tù thực dân kìm hãm đành thốt lên thành lời than: “Ngột làm sao chết mất thôi”
Khao khát tự do của Tố Hữu ngày càng trở nên mãnh liệt bởi ông muốn cống hiến cho cách mạng, muốn tiếp tục con đường cách mạng của mình. Nhà thơ đã sử dụng các động từ mạnh “đạp”, “ngột”, “chết” và dấu chấm than cuối câu thơ để bộc lộ những dòng cảm xúc phẫn uất đang trực trào. Biết làm sao khi ta đang bị giam cầm mà con chim tu hú ở ngoài trời vẫn cứ kêu.
Phải chăng nhà thơ cảm nhận được đó là tiếng gọi của cách mạng đang giục giã nhà thơ lên đường kháng chiến cứu nước. Tiếng chim tu hú gọi bầy trước không gian to lớn mênh mông đã tạo nên sự đối lập trong tâm hồn nhà thơ khi nhà thơ đang bị giam cầm không thể ra ngoài để hoạt động cách mạng. Nếu tiếng chim tu hú ở phần đầu báo hiệu mùa hè tới với biết bao tươi vui thì tiếng chim tu hú ở cuối bài lại khiến nhà thơ cảm thấy khó chịu và ngột ngạt.
Nhà thơ muốn thoát li khỏi chốn lao tù nhưng hiện thực nghiệt ngã khiến cho tâm trạng nhà thơ càng trở nên bực dọc, khó chịu hơn. Thế nhưng dù có phải chịu cảnh tù đày nhà thơ vẫn không nản chí sờn lòng, trong bài thơ “Trăng tối” nhà thơ đã viết:
“Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểuDấn thân vô là phải chịu tù đày”
Bởi vậy, dù con đường cách mạng có khó khăn đến đâu thì nhà thơ cũng sẽ đương đầu và hoàn thành tốt các nhiệm vụ. Bài thơ “Khi con tu hú” đã khép lại nhưng tiếng chim tu hú vẫn vang vọng mãi trong tâm hồn nhà thơ. Qua bức tranh thiên nhiên tràn đầy hương sắc được cảm nhận bằng nhiều giác quan đã giúp Tố Hữu giãi bày được những uất ức trong lòng mình.
Với cách sử dụng ngôn từ giản dị nhưng có tính tạo hình cao đã khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà thơ. Người nghệ sĩ không chỉ cầm bút để đánh giặc mà còn có thể cầm súng ra chiến trường. Họ có một niềm khao khát tự do đến cháy bỏng, khát khao được đứng trong hàng ngũ của Đảng để mang sức mình phục vụ cách mạng.
Phân tích tâm trạng người chiến sĩ cách mạng – Mẫu 2
Tố Hữu một tác giả xuất sắc trong nền văn học Việt Nam, cái tên ấy cho đến ngày nay vẫn còn được nhắc đến rất nhiều qua những bài thơ của ông. Tố Hữu đã góp cho nền văn học nước nhà một giọng thơ trữ tình chính trị, tha thiết đằm thắm tình dân tộc mà cũng đầy ắp những sự kiện chính trị. Những tác phẩm thơ của ông được gắn liền với những chặng đường của cách mạng, mỗi một chặng đường nhà thơ lại mang đến những vần thơ hay cho bạn đọc. Một trong những tác phẩm hay của ông phải kể đến bài thơ khi con tu hú, bài thơ nay được viết khi ông đang bị bắt giam, nó thể hiện lên sự ngột ngạt uất ức của nhân vật trữ tình.
Sáu câu thơ đầu thể hiện sự yêu đời của nhà thơ ngay cả khi đang bị giam giữ. Có thể nói nhà giam kia chỉ có thể cầm tù được thể xác của người chiến sĩ trẻ chứ không thể nào cầm tù được tâm hồn anh:
“Khi con tu hú gọi bầy,Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần,Vườn râm dậy tiếng ve ngân,Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào,Trời xanh càng rộng càng cao,Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…”
Một bức tranh thiên nhiên được nhà thơ phô vẽ ra trước mắt chúng ta, đó là một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc, màu của tự do, đồng quê với hình ảnh của mùa hè. Mùa của con chim tu hú gọi bầy, trong trái tim người chiến sĩ ấy đang liên tưởng tới những hoạt động của người nông dân với hình ảnh cây lúa chiêm đang độ chín, trái cây nhà ai cũng đang ngọt dần. Mùa hè là mùa của những cây lúa vàng ươm cả một cánh đồng chờ người đến gặt về, mùa hè là mùa những trái cây như tu hú, vải, chôm chôm, nhãn. Những trái cây ấy đang độ chín nên chúng đang ngọt dần. chỉ tiếc rằng cái chốn lao tù này đang giam hãm một trái tim yêu đời lớn không thì thể xác kia có thể vẫy vùng trước những hình ảnh thiên nhiên rất đỗi giản dị mà thanh bình đó rồi. Bàn tay ấy sẽ gặt những bông lúa chiêm kia, cái miệng ấy sẽ thưởng thức những món ăn hoa quả tuyệt vời kia. Có thể nói những thứ ấy giống như hương vị của cuộc sống thanh bình và tự do. Không chỉ vậy tác giả tiếp tục vẽ lên những hình ảnh thân thuộc mới hấp dẫn không kém cây lúa vàng và trái cây thơm ngọt. Đó là màu vằng của trái bắp, những hạt vàng như hạt nắng giữa sân, nhìn cả một sân bắp ấy chúng ta không thể hết bâng khuâng vì vẻ đẹp của sự đầy đủ “đầy sân” và màu vàng đẹp đẽ của hạt bắp. thêm vào bức tranh ấy một màu xanh của trời cao rộng làm cho nó hiện lên thật đẹp làm sao. Và trên cái nền hòa bình ấy đôi con chim sáo đang lộn nhào từng không.
Bức tranh ấy không chỉ có màu sắc mà còn có cả âm thanh nữa. đó là âm thanh của tiếng ve râm ran trên những rặng cây trước nhà, ngoài cánh đồng nọ. Ve hiện lên thật đẹp nó gắn với tuổi thơ của mỗi người khi bắt chúng để nghe tiếng kêu hay hay đó. Đặc biệt màu hè thì không thể thiếu được tiếng ve kêu. Qua tiếng ve ấy ta như đang cảm nhận được nỗi nhớ quê hương của tác giả, dù trong lao tối mịt u uất nhưng tác giả vẫn biết được rằng bây giờ là mùa hè. Điều đó thể hiện sự yêu đời, yêu cuộc sống, nhơ quê hương gia đình.
Bức tranh ấy còn được khám phá ở độ cao và sâu của bầu trời. điệp từ càng cho thấy một bầu trời chỉ có mùa hè được sở hữu, nó không u ám sầm sập như mùa đông, không dịu dàng trong vắt như mùa thu mà nó mang vẻ đẹp cao rộng đến lạ kì.
Qua đây ta thấy Tố Hữu đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc, âm thanh và chiều cao. Đó là bức tranh thân thuộc với mỗi con người chúng ta, bức tranh về những thứ mộc mạc giản dị như lúa ngô khoai sắn, tiếng ve râm ran, bầu trời cao vợi. Bức tranh càng đẹp bao nhiêu thì nỗi nhớ quê nhà và tình yêu thương cuộc sống của nhà thơ lại càng lớn bấy nhiêu.
Tiếp đến những câu thơ cuối bài tác giả thể hiện rõ tình cảm của mình trong phòng giam ngục tối:
“Ta nghe hè dậy bên lòng,Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi.Ngột làm sao, chết uất thôi,Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu.”
Tác giả liên tưởng tới những hình tuyệt đẹp của ngày hè, những âm thanh ngọt ngào đó làm cho tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước và nỗi nhớ quê hương trỗi dậy mãnh liệt. nỗi nhớ ấy có thể đạp phăng đi tất cả những thứ trong phòng gian chật hẹp tù túng ấy. Có thể nói sự nhớ nhưng mãnh liệt ấy được thể hiện rất rõ qua câu thơ “Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi”. Bức tường đối với người chiến sĩ ấy chẳng khác nào địa ngục trần gian, sống mà không được tự do, sống mà bị cầm tù về thể xác khiến cho cái thể xác ấy không đáp ứng được nhu cầu của tinh thần. nhà thơ uất ức, ngột ngạt khi mà phải sống trong cảnh ngột ngạt như thế.
Như vậy có thể thấy qua bài thơ này tác giả đã gửi gắm cho chúng ta một tâm trạng lớn, một tình yêu lớn, niềm khát khao lớn của ông. Đó là khát khao tự do, niềm yêu cuộc sống, nhớ quê hương đất nước. Chính vì thế ta biết thêm một điều rằng dẫu bị giam hãm ngột ngạt trong bốn bức tường nhưng nhà thơ Tố Hữu không thôi yêu đời và khát khao tự do cháy bỏng.
Phân tích tâm trạng người chiến sĩ cách mạng – Mẫu 3
Tố Hữu sáng tác bài thơ Khi con tu hú tại nhà lao Thừa Phủ (Huế) vào mùa hè năm 1939, sau khi bị thực dân Pháp bắt giam vì “tội” yêu nước và làm cách mạng. Bài thơ thể hiện tâm trạng xốn xang, bức bối của người thanh niên cộng sản đang bị cầm tù, khi nghe thấy tiếng chim tu hú báo hiệu mùa hè đến đã muốn phá tung xiềng xích để trở về với đồng bào, đồng chí yêu thương.
Tiếng chim tu hú gọi bầy gợi cho nhà thơ nghĩ đến khung trời lồng lộng ở bên ngoài và càng cảm thấy ngột ngạt trong xà lim chật chội, càng khao khát cháy bỏng cuộc sống tự do. Tiếng chim là yếu tố gợi mở để mạch cảm xúc trào dâng mãnh liệt:
Khi con tu hú gọi bầyLúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Đó là tín hiệu của mùa hè rực rỡ, của sự sống tưng bừng sinh sôi nảy nở. Tiếng chim vô tình tác động đến tâm hồn người tù trẻ tuổi. Nằm trong xà lim chật hẹp, tối tăm, cách biệt với thế giới bên ngoài, nhà thơ lắng nghe tiếng chim rộn rã, lắng nghe mọi âm thanh cuộc đời bằng tâm hồn và trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ. Một tiếng chim thôi cũng gợi trong tâm tưởng nhà thơ cả một trời thương nhớ về những mùa hè nồng nàn của quê hương.
Mùa hè là mùa của lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần dưới cái nắng vàng óng như mật của miền Trung. Những âm thanh rạo rực và hình ảnh tươi đẹp, tràn đầy sức sống của mùa hè nối nhau hiện lên trong kí ức nhà thơ:
Vườn râm dậy tiếng ve ngânBắp rây vàng hạt đầy sân nắng đàoTrời xanh càng rộng càng caoĐôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Ôi tiếng ve! Tiếng ve ngân dài suốt thời thơ ấu, suốt tuổi học trò, làm sao quên được! Tiếng ve gợi nhớ về những khu vườn râm mát bóng cây, những sân phơi bắp (ngô) đầy ắp nắng đào. Màu vàng của lúa, bắp; màu hồng của nắng; màu xanh của trời tạo nên những mảng màu sắc lung linh, rực rỡ của bức tranh quê. Thoang thoảng đâu đây hương lúa, hương thơm trái chín đầu mùa.
Xa xa, tiếng chim tu hú lảnh lót, tiếng ve ngân ra rả trong vòm lá. Trên bầu trời cao rộng, những cánh diều chao lượn, tiếng sáo vi vu trong gió nam mát rượi chiều hè… Phải gắn bó, yêu mến quê hương sâu đậm đến độ nào thì nhà thơ mới hình dung ra một bức tranh mùa hè xứ Huế sống động đến như vậy. Đó là những mùa hè mà chàng thanh niên mười tám còn được sống tự do giữa gia đình, bè bạn, đồng bào, đồng chí thân thương.
Sáu câu thơ lục bát uyển chuyển mở ra cả một thế giới rộn ràng, tràn trề nhựa sống. Nhiều âm thanh, hình ảnh tiêu biểu của mùa hè được đưa vào bài thơ: tiếng ve ngân trong vườn cây, lúa chiêm chín vàng trên cánh đồng, bầu trời cao rộng với cánh diều chao lượn, trái cây chín mọng ngọt lành… Tiếng chim tu hú khởi đầu và bắt nhịp cho mùa hè rộn rã âm thanh, rực rỡ màu sắc, ngạt ngào hương vị… trong cảm nhận của người tù. Đoạn thơ thể hiện khả năng cảm nhận tinh tế và khát vọng tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trẻ trung, yêu đời nhưng đang bị quân thù tước mất tự do.
Đang hồi tưởng về quá khứ, nhà thơ trở lại với thực tại phũ phàng của chốn lao tù:
Ta nghe hè dậy bên lòngMà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Thi hứng được khơi nguồn bắt đầu từ tiếng chim tu hú. Tiếng chim nhắc nhớ đến mùa hè và tạo nên sự xao động lớn trong tâm hồn thi sĩ. Cảm xúc cứ dâng lên từng đợt, từng đợt như sóng dậy, thôi thúc con người bật tung xiềng xích, phá tan tù ngục để trở về với cuộc sống phóng khoáng, tự do.
Dường như sức nóng của mùa hè đang rừng rực cháy trong huyết quản người thanh niên yêu nước Tố Hữu. Sức sống mãnh liệt của mùa hè chính là sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ khát khao lí tưởng cách mạng, khát khao hoạt động, cống hiến cho dân, cho nước.
Tiếng chim tu hú là tiếng gọi thôi thúc của cuộc sống đối với người chiến sĩ cách mạng đang bị giam cầm. Bên ngoài là tự do, phóng khoáng, còn nơi đây là tù túng, bức bối:
Ngột làm sao, chết uất thôiCon chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Tâm trạng đau khổ, uất ức bật thốt thành lời thơ thống thiết. Cách ngắt nhịp bất thường kết hợp với các từ ngữ có khả năng đặc tả và những từ cảm thán như truyền đến độc giả cái cảm giác uất hận cao độ và niềm khao khát cháy bỏng muốn thoát ra khỏi cảnh tù ngục, trở về với cuộc sống tự do bên ngoài của người thanh niên yêu nước đang bị giam cầm trong lao tù đế quốc.
Câu thơ chứa đựng nỗi khắc khoải, vật vã, day dứt khôn nguôi cả về thể xác lẫn tâm hồn của nhà thơ trẻ. Trong hoàn cảnh ấy, thời khắc ấy, người cộng sản phải tự đấu tranh với bản thân để làm chủ mình, vượt lên những đắng cay nghiệt ngã của lao tù đế quốc, nuôi dưỡng ý chí, giữ vững khí tiết và tinh thần đấu tranh cách mạng. Đó là một hình thức đấu tranh tích cực mà Bác Hồ rất tâm đắc khi Người rơi vào chốn lao tù của Tưởng Giới Thạch: Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao. Các chiến sĩ cách mạng tiền bối trung kiên cũng đã khẳng định: Giam người khóa cả chân tay lại, Chẳng thể ngăn ta nghĩ tự do. (Xuân Thủy).
Tiếng chim tu hú cứ kêu hoài như nhắc nhở tới nghịch cảnh của nhà thơ, giục giã nhà thơ phá tung tù ngục để giành lại tự do.
Bài thơ Khi con tu hú làm theo thể thơ lục bát rất phù hợp với việc diễn tả tâm tư nhân vật. Sáu câu đầu nhịp điệu thong thả, từ ngữ trong sáng, hình ảnh tươi vui, tạo nên bức tranh mùa hè tuyệt đẹp. Bốn câu thơ sau nhịp điệu thay đổi hẳn. Câu thơ căng thẳng như chứa đựng một sức mạnh bị dồn nén chỉ chực bật tung ra. Đó là tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi hoạt động chưa được bao lâu đã lâm vào cảnh tù ngục, lúc nào cũng khao khát tự do, muốn thoát khỏi bốn bức tường xà lim lạnh lẽo để trở về với đồng bào, đồng chí thân yêu.
Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ được tạo nên từ rung động tột đỉnh của cảm xúc kết hợp với bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật vừa chân thực vừa tinh tế. Tiếng chim tu hú chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi đã làm dậy lên tất cả cảnh và tình mùa hè trong tâm tưởng nhà thơ. Người tù thấu hiểu được cảnh ngộ trớ trêu của mình trong chốn lao tù ngột ngạt, giữa lúc cuộc sống bên ngoài đang nảy nở, sinh sôi. Phải bứt tung xiềng xích, phá tan những nhà ngục hữu hình và vô hình đang giam hãm cả dân tộc trong vòng nô lệ.
Bài thơ Khi con tu hú là tiếng lòng của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi tuy đang phải sống trong cảnh lao tù nhưng vẫn tràn đầy sức sống, sức trẻ, chan chứa tình yêu con người, tình yêu cuộc sống.
Phân tích tâm trạng người chiến sĩ cách mạng – Mẫu 4
Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, thơ ông ngập tràn những hình ảnh lãng mạn cách mạng. Tâm trạng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Khi con tu hú của ông tiêu biểu cho phong cách ấy.
Nhan đề của bài chỉ là một cụm từ chỉ thời gian (vẫn chưa đầy đủ). Nhan đề của bài thơ là một ẩn ý vừa chỉ một thời điểm bừng lên của thiên nhiên, tạo vật, vừa chỉ sự khát khao hoạt động của con người.
Có thể tóm tắt nội dung bài thơ như sau: Khỉ con tu hú gọi bầy (cũng là khi mùa hè đang đến), người tù cách mạng càng thấy ngột ngạt, cô đơn trong phòng giam chật hẹp, càng khát khao được sống cuộc sống tự do bay bổng ở ngoài kia.
Sở dĩ, tiếng tu hú kêu lại có tác động mạnh đến tâm hồn của nhà thơ bởi nó là tín hiệu báo những ngày hè rực rỡ đến gần. Nó cũng là biểu tượng của sự bay nhảy tự do.
Khi con tu hú gọi bầyLúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.
Không phải tiếng chim đơn độc mà là tiếng chim “gọi bầy”, tiếng chim báo tin vui. Nghe chim tu hú gọi nhau biết rằng “lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”. Nhưng không phải chỉ có thế. Tiếng chim gợi lên một thế giới tràn ngập âm thanh, màu sắc, hình ảnh:
Vườn râm dậy tiếng ve ngânBắp rây vàng hạt đầy sân nắng đàoTrời xanh càng rộng càng caoĐôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Đó là những sắc màu, âm thanh của cuộc sống hằng ngày. Màu vàng của ngô, màu hồng của nắng nổi bật trên cái nền xanh của đất trời, quyện với tiếng ve ngân và còn được điểm xuyết thêm bằng hình ảnh “Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Không gian tràn trề nhựa sống, đang vận động, sinh sôi nảy nở từng ngày.
Đọc kĩ lại những câu thơ, ta bỗng phát hiện thêm nhiều điều kì lạ khác nữa. Các sự việc không được miêu tả trong trạng thái bình thường, chúng được tô đậm, được đẩy lên mức cao nhất có thể. Không phải hạt bắp vàng mà là “bắp rây vàng hạt” nắng là “nắng đào” màu sắc lộng lẫy nhất, trời xanh thì “càng rộng càng cao” tầm mắt cứ được mở rộng ra thêm mãi. Tiếng ve không chỉ “ngân” mà còn “dậy” lên, hai tính từ miêu tả âm thanh kết hợp với nhau khiến cho tiếng ve rộn rã khác thường. Chừng như để hoà điệu với những âm thanh và hình ảnh đó, cánh diều sáo cũng không chịu “lững lờ” hay “vi vu” mà “lộn nhào từng không”. Cánh diều như cũng nô nức, vui lây trong không gian lộng lẫy màu sắc và rộn rã âm thanh đó.
Sở dĩ có hiện tượng đó là bởi tác giả đã không trực tiếp quan sát và miêu tả cảnh vật. Nhà thơ đang bị giam trong tù. Những bức tường kín mít vây xung quanh làm sao cho phép nhà thơ nhìn ngắm hay lắng nghe… Tất cả đều được tái hiện từ trí tưởng tượng, trí nhớ và hơn thế nữa là tình yêu, lòng khát khao mãnh liệt được tháo cũi sổ lồng. Trong cảnh tù đày, màu ngô lúa hay màu nắng, màu của trời xanh bỗng trở nên quý giá vô ngần, bởi thế nên những màu sắc, âm thanh hết sức bình thường bỗng trở nên lung linh, huyền ảo, rực rỡ hẳn lên. Đoạn thơ này thể hiện tình yêu sâu sắc của nhà thơ đối với cuộc sống, đôi với quê hương.
Mộng tưởng càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện thực lại càng cay đắng, nghiệt ngã bấy nhiêu.
Ta nghe hè dậy bên lòngMà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!Ngột làm sao, chết uất thôiCon chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Tưởng như sự liên kết giữa hai đoạn thơ này không thật chặt chẽ và tứ thơ không liên tục. Khi hướng ra bên ngoài, nhà thơ tả cảnh nhưng khi hướng vào trong lại tả tâm trạng. Kì thực đây chính là sự liên kết vô cùng khéo léo và tinh tế. Mối dây liên kết ấy chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim gọi bầy tha thiết gợi mở một thế giới bao la và vô cùng sinh động. Nhưng thế giới đó càng rộng rãi, rực rỡ bao nhiêu thì lại càng khiến cho người tù (đã bị tách biệt khỏi thế giới ấy) cảm thấy ngột ngạt và khao khát bấy nhiêu.
Tiếng chim tu hú ở đầu và cuối của bài thơ tuy đều biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của tự do, của cuộc sống ngoài kia đầy quyến rũ đối với người tù nhưng tâm trạng của người tù khi nghe tiếng tu hú lại rất khác nhau, ở câu thơ đầu, tiếng tu hú gợi hình ảnh cuộc sống đầy hương sắc, từ đó gợi ra cái khát khao về cuộc sống tự do. Thế nhưng, đến câu kết, tiếng chim ấy lại khiến cho người tù có cảm giác bực bội, đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù đày.
Bài thơ hay ở những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà giàu sức gợi cảm, ở nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát uyển chuyển, tự nhiên và cả ở những cảm xúc thiết tha, sâu lắng, thể hiện được nguồn sống sục sôi của người cộng sản.
Phân tích tâm trạng người chiến sĩ cách mạng – Mẫu 5
Trong bóng tối mịt mờ chốn lao tù, dường như sự sống đã chấm dứt hẳn, bởi lạnh giá, bởi cô độc. Vậy mà, giữa những âm thanh khô khốc, chói tai của tiếng xiềng xích, vẫn vang lên nhịp tim thổn thức, rạo rực của một hồn thơ trẻ tha thiết yêu đời, yêu người. Tố Hữu, bằng cảm xúc chân thật của mình, đã cất lên tiếng nói tâm tình tha thiết của người chiến sĩ cộng sản suốt đời chiến đấu cho lí tưởng và tâm hồn khát khao tự do đến cháy bỏng trong bài thơ “Khi con tu hú”.
Nhan đề bài thơ là một sự diễn đạt chưa trọn ý một cách kì lạ. Kì lạ bởi chính chỗ chưa trọn vẹn đó đã mở ra bao nhiêu liên tưởng. Giờ đây, người ta không còn thấy bóng dáng cô đơn, nặng nề của người tù Tố Hữu mà chỉ nghe tiếng lòng nhà thơ đang rộn ràng, ngân vang khi đón nhận lấy tiếng chim tu hú từ xa rộn về. Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc ở chốn làng quê Việt Nam, báo hiệu cho sự chuyển mình của sự sống – mùa hè về. Lúc này, khi con tu hú gọi bầy, trong hoàn cảnh tách biệt với cuộc sống bên ngoài, người chiến sĩ cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt hơn, tù túng hơn, vì vậy mà càng thêm khát khao cháy bỏng hướng đến cuộc sống tự do tươi đẹp bên ngoài:
“Khi con tu hú gọi bầyLúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dầnVườn râm dậy tiếng ve ngânBắp rây vàng hạt đầy sân nắng đàoTrời xanh càng rộng càng caoĐôi con diều sáo lộn nhào tầng không”
Mười chín tuổi, còn trẻ trung, bồng bột, người thanh niên Tố Hữu đã tìm thấy cho mình lí tưởng cao đẹp cuộc đời. Những bước đi không mỏi mệt trên chặng đường chông gai, phút chốc phải dừng đột ngột, bị bó buộc tù hãm khiến cho Tố Hữu không khỏi có lúc thốt lên chua xót: “Cô đơn thay là cảnh thân tù”. Nhưng rồi phút giây ấy cũng nhanh chóng đi qua, nhường chỗ cho không gian cảnh vật tràn trề nhựa sống: những bông lúa chín, hạt bắp vàng, ánh nắng đào, trời xanh rộng, đôi sáo diều, tiếng ve ngân… Phải có một sự tưởng tượng lãng mạn, bay bổng và một tâm hồn mến yêu sự sống sâu sắc mới có thể vẽ lại toàn bộ bức tranh phong cảnh mùa hè sống động đến vậy. Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp kia không phải là hiện thực, tất cả chỉ là sự tưởng tượng của một tâm hồn mơ mộng khi căng tất cả các giác quan để nghe, để nhìn, để ngửi, để cảm nhận không khí hè qua tiếng gọi bầy của tu hú. Chỉ bằng vài đường nét, màu sắc, âm thanh, nhà thơ đã phơi bày một bức tranh đầy nhựa sống với cánh đồng lúa chiêm quen thuộc của quê hương đã bao lần đi vào thơ Tố Hữu:
“Đây từng ô mạ xanh mơn mởn(…)Ôi ruộng đồng quê hương thương nhớ ơi!”
Giờ đây lại hiện về trong trạng thái căng đầy nhất, viên mãn nhất, lúa ngả vàng, ngả sang màu niềm vui, là màu vàng rực rỡ của mùa hè, của mồ hôi kết tinh thành hạt thóc.
Với một tâm hồn lãng mạn tinh tế, Tố Hữu đã cảm nhận sự thay đổi của màu nắng với nhiều góc độ: từ ánh nắng của “đôi ánh lạt ban chiều” (Tâm tư trong tù), ánh nắng yếu ớt dễ bóp nghẹt bởi bóng tối tới một “ánh nắng đào” giữa mùa hè, lấp đi dấu ấn của “vườn râm”. Câu thơ là một không gian thoải mái với sắc hồng kì lạ. Đó là thứ ánh sáng êm dịu, hiền hậu, vỗ về cho con người trước những mất mát, đau khổ trong cuộc đời. Có lẽ từ chính sự gặp gỡ tuyệt diệu của chàng thanh niên trẻ tuổi:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạMặt trời chân lí chói qua tim”
Đã khiến cho ánh nắng mùa hè có sự thay đổi tinh tế đến vậy. Và sự xuất hiện của bầu trời trong vắt như mặt nước yên bình nâng tầm bay cho các cánh diều đã đẩy tầm nhìn, tầm nhận thức của nhà thơ lên đến độ sâu nhất, xa nhất, cao nhất:
“Trời xanh càng rộng càng caoĐôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Thấp thoáng trong ánh nhìn người tù, là một không gian mở rộng đến vô cùng vô tận. Mặc dù có thể lúc ấy ánh nhìn của nhà thơ – chiến sĩ có phần bị che khuất đi bởi chấn song nhà tù chật hẹp. Trên bầu trời lúc này không phải là một mình lẻ loi, con sáo diều cũng có đôi, có cặp, có được sự tự do bay lượn trong vùng trời riêng kia. Huống chi là con người. Vậy mà, thực tế thì sao? Con người cô đơn, cô đơn hơn bao giờ hết, và mất tự do.
Không ngẫu nhiên mà bài thơ có sự bổ đôi của hai câu thơ lục bát. Nhà thơ diễn tả bức tranh mùa hè sống động đối lập với cảnh mùa đông trong ngục tối đã làm nổi bật lên khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ trên con đường tìm đến tự do. Bốn câu thơ kết đã lắng lại cho tiếng lòng náo nức bật lên:
“Ta nghe hè dậy bên lòngMà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!Ngột làm sao, chết mất thôiCon chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
Khổ thơ là lời bộc lộ trực tiếp cho tâm tư con người. Bốn câu cảm thán là sự dồn nén những cảm xúc mãnh liệt của một trái tim đau khổ, uất hận vì mất tự do. Nhà thơ nghe hè, cảm nhận hè chỉ qua tiếng chim tu hú gọi bầy. Hè đã đến, ba tháng trong ngục tối cũng đã trôi qua, lòng người thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn tiếng gọi lên đường, tiếng gọi của tự do. Từ trong sâu thẳm tâm tư mình, người tù đã nhận ra tất cả cuộc sống náo nức, vui tươi bên ngoài lúc chỉ là tưởng tượng, bởi đó là tất cả những hình ảnh tồn tại trong trí nhớ của nhà thơ. Đó là những cánh đồng, những vườn cây trái, những vườn râm. Còn hiện tại, kẻ thù đang giày xéo quê hương, đã biến bao đồng quê thành hoang mạc và thực chất không gian tự do mà nhà thơ khát khao bên ngoài kia cũng chỉ là một không gian tù hãm, một cái lồng to giam chí lớn, như chụp lên cuộc sống con người, lên quê hương. Cho nên, khổ thơ là sự bừng tỉnh của lí trí, là tâm trạng uất ức, ngột ngạt muốn đạp bỏ tất cả, tìm đến không gian tự do, tự tại thật sự. Bằng cách ngắt nhịp mạnh kết hợp với những từ ngữ mạnh mẽ: “đạp tan”, “chết uất”, câu thơ đã tập trung cao độ tinh thần yêu đời, yêu người cháy bỏng.
Tiếng kêu tu hú cứ day đi day lại cả bài thơ, như thúc giục, như lời thôi thúc người tù vượt thoát cảnh giam cầm, tìm về với tự do. Có lẽ vì vậy mà ba năm sau, Tố Hữu đã vượt ngục và quay về đội ngũ, để làm tròn ước nguyện cống hiến tất cả cuộc đời cho cách mạng.
“Khi con tu hú” là một bài thơ kết hợp hài hoà của cảnh và tình. Cảnh mở ra rạo rực, tha thiết, tình lắng đọng da diết, trầm buồn. Với tâm hồn dân tộc, ngòi bút linh hoạt, mềm mại, Tố Hữu xứng đáng với danh hiệu con chim đầu đàn trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam.
Phân tích tâm trạng người chiến sĩ cách mạng – Mẫu 6
Tố Hữu sáng tác bài thơ “Khi con tu hú” tại Huế, tháng 7 – 1939 bài thơ này được in trong phần “xiềng xích”, một trong ba phần của tập thơ “Từ ấy”. “Khi con tu hú”, được viết trong hoàn cảnh tác giả bị đế quốc Pháp bắt giam tại nhà lao Thừa Thiên, do đó nội dung toát lên từ bài thơ là tâm trạng của một thanh niên yêu tự do nhưng lại đang bị trói buộc bởi cảnh tù đày.
Đang ở trong xà lim, Tố Hữu nghe vọng vào tiếng chim tu hú. Tiếng chim gọi bầy nhắc anh nhớ đến thời gian đã vào hè. Một trong những thiệt thòi của người tù là bị tách khỏi môi trường hoạt động, tách rời xã hội, bị mất đi cái không gian bao la thoáng đãng chỉ còn lại cái không gian chật hẹp là bốn bức tường xám lạnh. Do vây, khát khao được tiếp xúc với con người ngoài đời, với không gian nhiều vẻ ở bên ngoài.
Cũng ở xà lim số 1 nhà lao Thừa Thiên, tháng 4 – 1939 Tố Hữu đã viết bài “Tâm tư trong tù”:
“Cô đơn thay là cảnh thân tù!Tai mở rộng và lòng sôi rạo rựcTôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nứcỞ ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!”
Cho nên hàng ngày anh vẫn lắng nghe “tiếng đời lăn náo nức” từ bên ngoài dội vào. Để nắm bắt được những cái đó, anh chỉ có thể bằng một giác quan duy nhất: tai nghe. Từ âm thanh. qua trí tưởng tượng, anh có thể “ngửi”, có thể “liếm” bất cứ hình ảnh nào ngoài đời thực, nhất là những hiện tượng trước đó anh đã từng được thấy.
Lần này tiếng chim tu hú đã giúp anh nghe thêm được cả tiếng diều sáo vi vu, tiếng ve ngân rộn rã. Anh hình dung được mọi cảnh vật gần xa, ngoài đồng, “lúa chiêm đang chín”, chỗ này “bắp rây vàng hạt”, chỗ nọ “trái cây ngọt dần”
Anh còn thấy được, nghe được với cả một không gian vô cùng rộng lớn. Thoáng đãng và đẹp đẽ:
”Trời xanh càng rộng càng caoĐôi con diều sáo lộn nhào từng không”.
Tiếng chim tu hú gọi bầy gợi nhớ trong anh những mùa hè đẹp đẽ và đầy sức sống với bao màu sắc âm thanh, màu vàng của lúa đương chín, của bắp đã già, màu đỏ hồng của trái cây vào độ ngọt dần, của nắng vào buổi sớm, màu xanh của vườn cây và của trời cao thăm thẳm…
Mùa hè đẹp và đầy sức sống ấy càng làm sôi sục trong anh bằng máu nóng của người thanh niên yêu nước, nhưng cũng chính vì lòng yêu nước thiết tha trong anh đã đưa anh về với tiếng gọi của quê hương của một mùa hè náo nức.
Cả khoảng không gian quen thuộc của xứ Huế đang chuyển mình vào hè càng làm anh tiếc những thời gian đã mất ở chốn lao tù, càng thôi thúc những khát khao trước hoạt động phong trào cách mạng. Anh muốn được tự do, phải được tự do! Anh muốn phá tung tù ngục để ra ngoài hoạt động cho đời:
“Ta nghe hè dậy bên lòngMà chân muốn đạp tan phòng, hề ôi!”
Với sức yếu của thân tù trong tay không ruột tấc sắt, ngày đêm bị nhốt trong xà lim thì anh làm sao thoát khỏi bốn bức tường khắc nghiệt.
Khốn nỗi, ngoài kia chim tu hú cứ kêu, cứ gọi bầy, nghe như thúc giục làm cho anh càng sốt ruột, càng uất ức vì cảnh mình đang bị giam cầm:
“Ngột làm sao, chết uất thôiCon chim tu hú ngoài trời cứ kêu”.
Tâm trạng của Tố Hữu trong bài thơ “Khi con tu hú” là tâm trạng của một người thanh niên dạt dào tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống, là tâm trạng của một chiến sĩ cách mạng khát khao được hoạt động cho phong trào nhưng lại rất “uất” vì đang phải bó tay trong cảnh giam cầm. Với bầu nhiệt huyết của người thanh niên thì tâm trạng ấy không thể kéo dài. Anh phải tìm mọi cách vượt ngục và mấy năm sau anh đã vượt ngục thành công.
Phân tích tâm trạng người chiến sĩ cách mạng – Mẫu 7
Sống giữa thời hoà bình, êm đềm, hạnh phúc đã bao giờ bạn tự hỏi: chúng ta sẽ làm gì nếu đất nước có chiến tranh? Đặt ra giả thiết như vậy chúng ta mới thấy khâm phục thế hệ cha anh, những con người đã hi sinh hết mình cho đất nước. Họ mang trong mình một lòng yêu nước, một khát vọng tự do đến cháy bỏng ngay cả khi bị tù đày, tra tấn. Đọc những vần thơ trong tù của các chiến sĩ cách mạng, ta vừa xót xa vừa ngưỡng mộ tinh thần chiến đấu quả cảm của các anh. Thi phẩm Khi con tu hú của nhà thơ cách mạng Tố Hữu sẽ mãi là tiếng thơ chứa lửa, ngọn lửa yêu nước, yêu tự do của thế hệ thanh niên một thuở.
Bài thơ được sáng tác trong nhà lao Thừa phủ khi chàng thanh niên yêu nước Tố Hữu mới tròn 19 tuổi. Cuộc sống ngục tù tăm tối, cách biệt càng khơi dậy trong lòng người con trai trẻ tuổi khát vọng tự do cháy bỏng. Dù “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần ở ngoài lao”, luôn hướng lòng mình ra với thế giới bên ngoài. Tác phẩm gồm hai phần rõ rệt, 6 câu thơ đầu miêu tả cuộc sống sôi động, tươi đẹp “ngoài kia”, 4 câu kết thể hiện tâm trạng bức bối muốn vượt thoát khỏi chốn nhà lao của người tù cách mạng. Sợi dây liên kết giữa hai phần là tiếng chim tu hú khắc khoải. Ta hiểu vì sao nhà thơ lấy “Khi con tu hú” làm nhan đề cho thi phẩm.
Trong hoàn cảnh ngục tù tối tắm, kìm kẹp, kênh duy nhất để người tù giao tiếp với bên ngoài đó là thính giác. Lắng nghe tiếng tu hú kêu, bao nhiêu kí ức cùng những liên tưởng ùa về :
Khi con tu hú gọi bầyLúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dầnVườn râm dậy tiếng ve ngânBắp rây vàng hạt đầy sân nắng đàoTrời xanh càng rộng càng caoĐôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Tiếng tu hú chính là âm thanh báo hiệu mùa hè sang, là biểu tượng cho mùa thu hoạch rộn ràng. Nhà thơ kết hợp giữa sự hồi tưởng lại quá khứ và liên tưởng thực tại để tái hiện một bức tranh mùa hè tràn trề sức sống. Ở đó, tạo vật đều đang trong trạng thái viên mãn, tròn đầy nhất: lúa chín, trái ngọt, bắp vàng, nắng đào. Tác giả đã sử dụng các màu sắc nóng: vàng, đào,… nhằm nhấn mạnh sức sống căng tràn. Bức tranh mùa hè hiện ra không chỉ rực rỡ sắc màu mà còn sôi động bởi âm thanh. Âm thanh của tiếng ve râm ran trong các tán cây, âm thanh của tiếng sáo diều vi vu gợi nên sự thanh bình của vùng quê. Hình ảnh “trời xanh” cao rộng, cùng với hình ảnh “đôi con diều sáo” đang chao liệng trên bầu trời là biểu tượng cho sự tự do tuyệt đích. Nhà thơ đã dựng lên một bức tranh ngập tràn sự sống, bình yên. Đó chính là những khao khát, là niềm nhớ thương mong mỏi đến khắc khoải của nhà thơ.
Cảnh vật ngoài kia hiện lên càng đẹp bao nhiêu thì cuộc sống ngục tù càng trở nên tăm tối bấy nhiêu. Bốn câu kết đặc tả chân thực tâm trạng và ước muốn “tháo cũi sổ lồng” của người tù cách mạng:
Ta nghe hè dậy bên lòngMà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!Ngột làm sao, chết uất thôiCon chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Cuộc sống tự do, tươi đẹp bên ngoài càng thôi thúc người chiến sĩ bị giam cầm. “Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !” câu thơ ngắt nhịp 6/2 vừa thể hiện sự dứt khoát, mạnh mẽ sức mạnh của người tù, vừa khiến câu thơ như một lời xót xa. Hai tiếng “hè ôi !” tách biệt làm nhịp thơ như chùng xuống. Nhưng đấy chỉ là sự chuẩn bị cho cao trào: “Ngột làm sao, chết uất thôi”. Câu thơ như tiếng kêu vang đầy dũng khí. Nhịp 3/3 bẻ câu thơ ra làm đôi, một mặt thể hiện đúng không khí bức bối, oi ngột của nhà tù, một mặt thể hiện sự uất ức đến đỉnh điểm của những con người yêu nước tha thiết đang bị giam cầm. Tuy nhiên, lòng khao khát tự do thì cháy bỏng, mãnh liệt nhưng hiện thực tù đày thì vẫn không thể đổi thay, cho nên bài thơ kết lại trong niềm khắc khoải: “Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu !”. Tiếng chim tu hú đã có sự thay đổi sắc thái, không còn là tiếng chim “gọi bầy” gợi nên khung cảnh tươi đẹp mà đã trở thành tiếng chim “kêu” ám ảnh, tiếng chim thúc giục con người vươn tới ánh sáng của tự do.
Bài thơ Khi con tu hú được viết bằng thể thơ lục bát đậm chất dân tộc, lời thơ giản dị mà cuộn trào khát khao thể hiện tâm trạng của người tù cách mạng. Những con người trẻ tuổi, trẻ lòng muốn thoát khỏi giam cầm, vươn tới tự do để tranh đấu vì đất nước. Người đọc hiểu rằng, có những con người tràn đầy sức mạnh nhiệt huyết như vậy mới làm nên những chiến thắng vang dội, đưa dân tộc Việt Nam đến bến bờ của độc lập, tự do.
Phân tích tâm trạng người chiến sĩ cách mạng – Mẫu 8
Khi con tu hú được Tố Hữu sáng tác trong những ngày bị giam tại nhà lao Thừa phủ. Cả bài thơ vang vọng tiếng chim tu hú, đây cũng chính là âm thanh khơi mạnh nguồn cảm xúc của người tù cách mạng. Qua đó, thể hiện rõ nét tâm trạng đầy biến động của người chiến sĩ cách mạng.
Mở ra cảnh mùa hè là tiếng chim tu hú gọi bầy. Tiếng chim tu hú như tiếng báo hiệu của mùa hè, vọng vào trong xà lim nhà tù, đánh thức dậy trong ký ức của nhà thơ bao nhiêu hình ảnh tươi sáng, rực rỡ của mùa hè sôi động ở bên ngoài.
Bằng tưởng tượng, nhà thơ vẽ ra một bức tranh đầy màu sắc sáng tươi rực rỡ và âm thanh rộn ràng của thiên nhiên khi hè về. Có tiếng chim tu hú vang xa thúc giục, tiếng ve râm ran và tiếng sáo diều vi vút trong không trung cao rộng. Có ánh nắng rực rỡ “đầy sân nắng đào”, có màu vàng tươi của bắp rẫy vàng hạt, màu vàng đậm của lúa chín. Xen vào những mảnh màu sáng rực rỡ ấy là mảnh không gian cao rộng với màu xanh thăm thẳm của bầu trời.
Trời xanh càng rộng, càng cao.
Cần chú ý đây là cảnh thiên nhiên mở đầu mùa hè. Nó có cái tưng bừng rộn rã, tươi sáng và tất cả đang đi tới độ chín, đầy hứa hẹn. “Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”, “bắp rây vàng hạt”. Cũng như tác giả đang bước vào những năm tháng của tuổi thanh xuân tràn đầy sức trẻ, đầy hi vọng, hứa hẹn và cũng là thời điểm gặp gỡ lí tưởng cách mạng và say mê hoạt động.Bởi vậy, tiếng gọi vào mùa hè của chim tu hú đã khơi dậy ở trong lòng người tù một tâm trạng bức bối, u uất, một khát khao cháy bỏng muốn tung phá ra khỏi chốn lao tù ngột ngạt:
Ta nghe hè dậy bên lòngMà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!Ngột làm sao, chết uất thôi!
Bài thơ ngắn mà miêu tả rất sinh động với những hình ảnh, chi tiết tiêu biểu bức tranh thiên nhiên lúc sang mùa hè: có âm thanh rộn rã, vang vọng, có ánh nắng tươi hồng, có màu sắc rực rỡ, có không gian cao rộng và sống động của bầu trời xanh cao với hình ảnh sáo bay lượn… Bức tranh thiên nhiên ấy vừa tả thực lại vừa mang ý nghĩa tượng trưng: đó là niềm khát khao của người tù tuổi trẻ về cuộc sống tự do, tươi sáng, thể hiện sự nhạy cảm và tâm hồn tha thiết với sự sống của tác giả
Phân tích niềm khát khao tự do của người chiến sĩ cách mạng trong Khi con tu hú
Tố Hữu là nhà thơ có nhiều những tác phẩm hay viết về nhiều chủ đề khác nhau trong thời kì cách mạng. Do đó, tên tuổi của ông trở thành một trong những nhà thơ có nhiều thành công nhất. “Khi con tu hú” được sáng tác trong thời gian nhà thơ bị bắt giam khi đang hoạt động. Bài thơ đã thể hiện được khao khát cháy bỏng của người chiến sĩ muốn hướng tới cuộc sống tự do ở bên ngoài.
Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc tại những vùng làng quê ở Việt Nam. Khi tu hú kêu cũng chính là lúc mùa hè về. Và trong hoàn cảnh như vậy thì người chiến sĩ cách mạng cảm thấy bị bó buộc hơn bao giờ hết.
Khi con tu hú gọi bầyLúa chiêm đương chín trái cây ngọt dầnVườn râm dậy tiếng ve ngânBắp rây vàng hạt đầy sân nắng đàoTrời xanh càng rộng càng caoĐôi con diều sáo lộn nhào tầng không
Mở đầu bài thơ là những hình ảnh mà người thanh niên đang tưởng tượng ở trong tâm trí của mình khi được nghe tiếng những chú chim tu hú kêu. Anh tưởng tượng ra rất nhiều thứ, đó đều là những hình ảnh đẹp gắn liền với kí ức khi còn có được tự do. Cả không gian như tràn đầy nhựa sống, biết bao nhiêu hình ảnh với đầy những màu sắc hiện lên như màu vàng của vựa lúa chiêm, những hạt thóc, ánh nắng đào cùng những âm thanh như tiếng sáo diều, tiếng ve ngân. Đó là sự kết hợp cảm nhận cả về hình ảnh và âm thanh của nhà thơ. Phải có một tình yêu thiên nhiên, trí tưởng tượng phong phú lắm thì anh mới có thể cảm nhận được những điều như vậy. Tất cả những giác quan đều được cảm nhận qua đường nét, màu sắc, âm thanh của quê hương.
Những hình ảnh đều là của mọi vật khi đang viên mãn và có nhiều thành quả nhất: là khi những hạt lúa được kết tinh, là thành quả của biết bao mồ hôi và nước mắt. Với tâm hồn tinh tế cùng con mắt độc đáo, ánh nắng cũng có sự thay đổi bởi nhiều góc độ, bên cạnh cả bầu trời trong vắt như mặt nước yên bình, giúp cho tầm nhìn của con người càng trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết.
“Trời xanh càng rộng càng cao”
Cả không gian như được mở rộng ra tới vô tận. Dù cho người thanh niên lúc ấy đang ở trong tù, phía sau song sắt nhưng vẫn cảm nhận được hình ảnh ở bên ngoài bằng chính trái tim và sức sống của mình. Tất cả mọi thứ đều đang tươi vui, ngay cả sáo diều cũng không hề lẻ loi mà luôn có đôi có cặp, được tự do bay lượn, cảm nhận được vùng trời của chính mình. Thế nhưng, con người – người thanh niên bây giờ lại không được như vậy. Anh khao khát, mong muốn có được tự do như cặp chim ấy nhưng cũng không thể có được. Anh chỉ có thể nhìn tự do, gửi gắm tâm hồn khao khát của mình tới những cảnh vật bên ngoài. Đến đây, nhịp thơ lục bát bỗng dưng như chia đôi. Nhà thơ đã vẽ lên hai bức tranh đối nghịch nhau. Bên ngoài là những tự do, hạnh phúc với một cuộc sống tràn ngập ánh nắng, còn bên trong nhà tù, phía sau song sắt lại là một cuộc sống tối tăm, gò bó. Trong chính hoàn cảnh ấy, người chiến sĩ trào lên những khao khát cháy bỏng hơn bao giờ hết.
Ta nghe hè dậy bên lòngMà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!Ngột làm sao, chết mất thôiCon chim tu hú ngoài trời cứ kêu
Khổ thơ là lời bộc lộ trực tiếp tình cảm của tác giả. Cảm xúc dồn nén tới mức bị bức bối, với hàng loạt những câu cảm thán “ôi”, ”mất thôi” khiến cho người chiến sĩ càng muốn đi ra ngoài để có được tự do thực hiện những lí tưởng của mình. Khổ thơ chính là sự bừng tỉnh của lí trí, là tâm trạng uất ức, muốn đạp bỏ tất cả những cảnh giam cầm để có được tự do của mình. Có lẽ bởi vậy, mà bên ngoài đời thực, sau ba năm, Tố Hữu đã vượt ngục để quay về đội ngũ, làm tròn ước nguyện cống hiến với cuộc đời.
Bài thơ là sự kết hợp hoàn chỉnh giữa cảnh và tình. Những hình ảnh thiên nhiên được tác giả miêu tả hết sức sinh động, qua đó thể hiện được ý chí kiên cường của người chiến sĩ.
Phân tích tâm trạng bức bối, khao khát tự do qua bài thơ Khi con tu hú
Tố Hữu là một nhà thơ nổi bật trong nền thơ ca Cách mạng và kháng chiến. Thơ của ông là sự hòa quyện giữa cuộc đời cách mạng và chặng đường thơ. Ông giác ngộ Cách mạng từ rất sớm, coi lý tưởng Cách mạng là “mặt trời chân lý” của cuộc đời mình. Khi bị bắt tù đày trong nhà lao Thừa Phủ, Huế, với một tâm trạng bức bối, khao khát tự do cháy bỏng, ông đã viết lên tác phẩm “Khi con tu hú”. Bài thơ là tình yêu tha thiết của ông dành cho cuộc sống và hơn cả là khao khát tự do đến cháy bỏng trong lòng được thể hiện qua từng vần thơ, đặc biệt là bốn câu thơ cuối của bài:
“Ta nghe hè dậy bên lòngMà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!Ngột làm sao, chết uất thôiCon chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”
Bài thơ được gợi mở bằng tiếng chim tu hú – loài chim đặc trưng của ngày hè, thường cất tiếng gọi nhau để báo hiệu hè về. Tiếng chim ấy cất lên giữa lúc tác giả đang bị nhốt giữa bốn bức tường tù đày lạnh lẽo, khiến cho ông cảm thấy vô cùng ngột ngạt, vô cùng bức bối. Bằng trí tưởng tượng của mình, trong ngục tù, Tố Hữu đã vẽ lên một bức tranh ngày hè đầy sống động, với đầy đủ âm thanh, sắc màu và những hình ảnh đặc trưng của mùa hè. Đoạn thơ chỉ với sáu câu là bức tranh rực rỡ, đẹp đẽ vô cùng, sống động và chân thực vô cùng, thế nhưng, trái ngược với nó lại là hoàn cảnh tù đày khắc nghiệt mà người tù Cách mạng đang phải chịu đựng. Và hoàn cảnh ấy đã khiến cho Tố Hữu cảm thấy thật đau khổ, bức bối, ngột ngạt, một lòng khao khát được thoát ra, được trở lại với cuộc sống ngoài kia.
“Ta nghe hè dậy bên lòng”
Mùa hè đã đến, đã bừng tỉnh, “dậy” bên ngoài khung cửa sổ, thế nhưng người tù lại chẳng thể nào được tận hưởng những phút giây tuyệt vời ây. Điều đó đã đẩy cao sự bức bối mà Tố Hữu đã cất giữ trong lòng từ lâu. Câu thơ là tiếng than mỏi mệt, buồn bã, đầy thất vọng. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác được Tố Hữu khai thác triệt để ở đây, khi ông cảm nhận ngày hè bằng thính giác chứ không phải là thị giác, xúc giác như bình thường. Bởi hoàn cảnh ngục tù đã khiến cho ông chẳng thể chứng kiến được không gian mùa hè trong trẻo ngoài kia. Tất cả chỉ có thể mường tượng, tận hưởng, “nghe” tiếng mùa hè vẫy gọi ở trong lòng mà thôi.
Mùa hè tới mà ông chẳng thể chạm vào, có lẽ chính vì thế mà tâm trạng bức bối của nhà thơ càng lên tới đỉnh điểm hơn, làm ông khao khát được tự do hơn bao giờ hết. Bốn bức tường kín mít che khuất tầm nhìn của ông, che mất cả sự tự do ông hằng yêu quý, vậy nên, nhà thơ muốn phá tan tất cả, đạp nát hết thảy mọi thứ để được ra ngoài, trở về với thiên nhiên, với cuộc sống tươi đẹp và tự do bên đồng đội của mình:
“Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!Ngột làm sao, chết uất thôi”
Tố Hữu đã dùng ở hai câu thơ này hai động từ mạnh để diễn tả cảm xúc bùng nổ của mình. Ông muốn “đạp tan” phòng giam lạnh lẽo, để bước ra ngoài thứ ánh sáng mà ông đang khao khát bấy lâu. Nghe đâu đây như tiếng thét đầy đau khổ của người tù muốn phá nát, đập tan hết thảy mọi thứ để có thể thoát ra, để được sống những giây phút tự do của mình. Sự bức bối khi phải trong lao tù đã khiến nhà thơ cảm tưởng như “chết uất thôi”. “Chết uất” trong sự ngột ngạt này, sự bức bối đến phát điên này. Tâm trạng của người thanh niên trẻ giờ đây đã dâng lên đến tột đỉnh, ông uất nghẹn, ngột ngạt, ông muốn phá tan xiềng xích để hướng đến tự do, trở về tiếp tục sự nghiệp cách mạng còn dang dở ngoài kia.
Tố Hữu cũng sử dụng ở bốn câu thơ này một loạt những từ ngữ cảm thán để thể hiện niềm xúc cảm đang cuộn trào, sục sôi trong lòng mình. Các từ cảm thán liên tiếp xuất hiện “ôi, thôi, làm sao” như muốn thể hiện cái cảm xúc đang dâng trào thật mạnh mẽ trong tim, cảm giác tự do thôi thúc mãnh liệt trong lồng ngực người tù trẻ tuổi.
Và câu thơ “Ngột làm sao, chết uất thôi” như một tiếng kêu đầy đau khổ, đầy bức bối khi bị tước đi tự do và khao khát cháy bỏng được thoát ra ngoài, được tự do.
Như chúng ta thấy, bài thơ được mở đầu là tiếng chim tu hú, nó là thứ khơi gợi, đánh thức, làm bừng tỉnh, sống động tâm hồn của nhà thơ. Nó cũng như tiếng gọi tha thiết của cuộc sống tự do ngoài khung cửa sổ với người cộng sản. Và tiếng chim tu hú ở câu thơ kết bài thơ lại dồn dập hơn như một lời thúc giục, lời mời gọi tha thiết khiến ông càng cảm thấy ngột ngạt, bức bối hơn xiết bao! Ông khao khát tự do biết chừng nào, mà tiếng chim bên ngoài kia thật lảnh lót, gọi mời khiến ông trở nên bực bội, tức tối hơn bởi ông chẳng thể ra ngoài mà hòa mình vào tiếng gọi ấy. Lời thơ cuối như một lời trách cứ, hờn dỗi với tiếng chim tu hú ngày hè:
“Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”
Con chim “cứ kêu” khiến người tù Cách mạng trẻ tuổi càng thổn thức, dằn vặt hơn bao giờ hết. Bởi ông đang da diết nhớ sự tự do, nhớ tới cuộc sống tươi đẹp ngoài kia. Nhịp thơ 6/2, 3/3 được nhà thơ sử dụng triệt để như muốn đặt vào trong đó tất cả những xúc cảm, những bức bối và khao khát tự do tới cháy bỏng của mình.
Bốn câu thơ cuối của bài thơ Khi con tu hú đã bộc lộ thật rõ ràng những xúc cảm đầy ngột ngạt, bức bối của Tố Hữu khi phải chịu cảnh tù đày trong bốn bức tường nhà giam Thừa Phủ. Hòa vào trong từng câu thơ là khát vọng tự do mãnh liệt, tới chảy bỏng khi ông nghe thấy những thanh âm tiếng chim vang vọng qua khung cửa sổ ngoài kia.
Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn ngủi, Tố Hữu đã thể hiện hết được những cảm xúc, những tình cảm, những bức bối, ngột ngạt và cả khao khát tự do cháy bỏng của mình. Qua đó, ta có thể hiểu rõ hơn về hoàn cảnh đau khổ của những người tù Cách mạng và nguồn sống mãnh liệt luôn sục sôi trong họ.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!