Trình bày suy nghĩ của em về sức hấp dẫn của các di tích lịch sử
Đề bài: Trình bày suy nghĩ của em về sức hấp dẫn của các di tích lịch sử – văn hóa truyền thống đối với du khách.
Bài tham khảo 1:
Du lịch là một hoạt động của dân cư trong thời gian nhàn rỗi, liên quan dến sự di chuyển và trú tạm thời bên ngoài nơi thường trú, nhằm mục đích nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức, văn hoá hoặc thể thao, kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ. Vì vậy, du lịch có ý nghĩa hết sức to lớn không những về mặt kinh tế mà còn cả mặt văn hoá. Ý nghĩa đó một phần do sự giao lưu, luân chuyển khách và một phần khác không kém quan trọng là do việc thực hiện các tuyến du lịch theo lộ trình ở những nơi có di sản, di tích và danh thắng nổi tiếng, có nền văn hoá dân tộc đặc sắc, Hiện nay theo thống kê của Cục Di sản văn hóa, Việt Nam có 2882 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 7 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được UNESCO cộng nhận. Như vậy, các di sản, di tích và danh thắng, các lễ hội văn hoá có một vị trí quan trọng trong du lịch, là một trong hai loại tài nguyên của du lịch – đó là tài nguyên du lịch nhân văn. Do vậy, giữa công tác bảo tồn di sản văn hoá và du lịch luôn có mối quan hệ biện chứng. Mối quan hệ này ngày càng thể hiện rõ trong sự liên hệ giữa việc bảo vệ và phát huy các di sản văn hoá nói chung và việc bảo tồn di tích nói riêng với việc khai thác phục vụ mục đích phát triển du lịch.
Du lịch có mối quan hệ mật thiết đến các hoạt động kinh tế – xã hội. Du lịch không thể đơn phương tồn tại và phát triển. Do đó quản lí du lịch cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành văn hoá, kinh tế trong chiến lược phát triển du lịch bền vững là môi trường, di tích, di sản. Cũng cần thừa nhận một thực tế khách quan là du lịch là một ngành công nghệ nhằm phục vụ cũng như chịu ảnh hưởng của mức sống và khả năng thẩm mĩ của con người, mà những yếu tố này là thường xuyên thay đổi. Văn hoá luôn vận động và phát triển. Di sản văn hoá là cơ sở quan yếu của du lịch văn hoá. Ngoài những di tích và di vật – là những bằng có vật chất và tinh thần của quá khứ, lối sống của cộng đồng và môi trường thiên nhiên cũng là những khía cạnh văn hoá quan trọng của di sản. Để đạt được sự bền vững, du lịch phải duy trì được khả năng thu hút về lâu dài phải hấp dẫn đối với khách du lịch.
Trong các đối tượng của hoạt động du lịch thì các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh có nhiều đối tượng nhất, xét cả bề rộng lẫn chiều sâu, cả về nội dung và hình thức. Chính điều đó đã tạo ra mối quan hệ rất gắn bó giữa du lịch và các hoạt động bảo tồn di tích. Hoạt động bảo tồn di tích ngày càng có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của ngành du lịch nước ta. Điều đó thể hiện ở những điểm sau đây:
Một là, di tích là đối tượng và nội dung chủ yếu của hoạt động du lịch. Trên thực tế rất nhiều những “tour” du lịch có hoạt động tại các di tích . Thiếu những đối tượng đó, tức là thiếu đi nội dung và địa chỉ của du lịch dù ở dưới hình thức nào. Ví dụ: nhờ di tích danh thắng mà có du lịch văn hoá, du lịch hang động, du lịch sông suối, thác nước….. nhờ di tích lịch sử mà hình thành được các chủ đề du lịch tìm hiểu về lịch sử Việt Nam như sản phẩm du lịch “ hành trình di sản miền Trung”, “ con đường đi qua các kinh đô cổ ”, du lịch về các nơi xảy ra các trận đánh nổi tiếng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm như: sông Bạch Đằng, Như Nguyệt, Rạch Gấm, Xoài Mút, Điện Biên Phủ, sông Bến Hải….., du lịch về tìm hiểu về các danh nhân, anh hùng dân tộc như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh….. Ngoài ra còn có các chủ đề du lịch khác như du lịch làng nghề, du lịch lễ hội gắn với các hoạt động văn hoá truyền thống khác.
Hai là, hoạt động của di tích là một khâu quan trọng trong dây chuyền hoạt động du lịch. Đây là một thực tế trong rất nhiều năm qua. Những nhà khoa học lịch sử, khoa học nhân văn trong đó có những người làm công tác bảo tồn di tích đã xây dựng nên những cơ sơ cho ngành du lịch phát triển. Bởi chính họ là những người nghiên cứu để xác định giá trị của hệ thống các di tích, khám phá và khẳng định được những danh thắng có giá trị và cũng chính họ từ thế hệ này sang thế hệ khác công phu nghiên cứu sưu tầm để dựng nên các bảo tàng, bảo vệ cho sự tồn tại của làng nghề, dựng lại các lễ hội truyền thống, các trò diễn dân gian …. để du lịch đứng nên cái nền đó mà phát triển. Mặt khác, với hàng ngàn người đang làm công tác thuyết minh ở các di tích thật là con số không nhỏ, đội ngũ này hiện nay đang đảm nhiệm một phần rất quan trọng vai trò của các hướng dẫn viên du lịch, chính họ là những người cung cấp những thông tin về lịch sử, xã hội, văn hoá cho du khách, chính họ mang đến cho khách du lịch cảm tình, những hiểu biết sâu sắc hơn về đất nước ta và con người Việt Nam . Và cũng chính họ là người khơi dậy được sự hấp dẫn vừa đáp ứng đến nhu cầu văn hoá và nghiên cứu khoa học … và đặt cho du khách niềm hy vọng gặp lại những lần sau.
Ba là, theo xu hướng phát triển của thời đại từ đối đầu sang đối thoại hội nhập và cùng với sự tăng trưởng về đời sống vật chất con người, nhu cầu du lịch nhân văn đòi hỏi thoả mãn cả trí thức, đạo đức và tình cảm. Các di tích sẽ giữ vai trò chủ yếu trong hình thức du lịch này.
Với tất cả những đặc điểm trên, có thể nói về góc độ kinh tế thì du lịch là một ngành kinh tế đặc thù bao gồm nhiều yếu tố văn hoá. nói về cả mặt văn hoá thì đây là một hoạt động văn hoá có hiệu quả kinh tế cao và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Xét về mục tiêu hoạt động của ngành văn hoá cũng như ngành du lịch có điểm chung là thu hút được nhiều khách nhất, phục vụ được đông đảo các tầng lớp nhân dân cả trong nước và quốc tế. Chính vì có sự tương đồng trong mục đích hoạt động của cả một số mặt có tính chất kĩ thuật khác nữa, mà ngành du lịch và ngành hoá thông tin nói chung và bảo tồn di tích nói riêng cần có một sự phối hợp hoạt động thật chặt chẽ. Về mặt khoa học, đây là sự phối hợp liên ngành, còn xét về mặt kinh tế phải xem đây như là một sự liên kết vì lợi ích kinh tế xã hội chứ không phải là sự hợp tác hỗ chợ theo kiểu hô hào khẩu hiệu. Sự phối hợp này cần được phản ánh qua các hoạt động cụ thể, đó là:
– Sự phối hợp chặt chẽ trong khâu đào tạo bao gồm cả việc xây dựng lý luận chuyên ngành văn hoá du lịch, nhằm khắc phục tình trạng hiện nay: cán bộ du lịch chỉ thuần tuý về kỹ năng phục vụ du lịch, thiếu hiểu biết hoặc chưa hiểu đầy đủ về những vấn đề văn hoá, về lịch sử, về di tích là những đối tượng cơ bản của nội dung du lịch thời hiện đại. Ngược lại, các cán bộ hoạt động du lịch mà không biết mình đang làm du lịch, họ thiếu những kĩ năng, kĩ xảo và thao tác nghề du lịch cần thiết. Sự phối hợp cụ thể và có nghiên cứu một cách nghiêm túc trên các lĩnh vực lịch sử, xã hội, văn hoá và môi trường. …. để xây dựng được các điểm, tuyến du lịch, vừa có địa hướng rõ ràng cho chương trình du lịch cụ thể, phù hợp với yêu cầu đối tượng cũng như thời gian, sở thích, tình cảm, phong tục, tập quán, …. Lấy đó làm điều kiện để quyết định những vấn đề xây dựng hạ tầng không phù hợp với điều kiện khai thác của hoạt động du lịch. Đặc biệt là khác phục tình trạng xâm phạm làm xuống cấp nhanh chóng các di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật hay danh thắng do khai thác di tích thiếu khoa học.
Giữa ngành du lịch và ngành văn hoá cần có sự phối hợp thường xuyên và lâu dài trong lĩnh vực nghiên cứu bảo tồn và khai thác các di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, các danh nam thắng cảnh cũng như các làng nghề truyền thống, gắn liền với lễ hội, các vấn đề dân tộc học, khảo cổ học, môi trường và sinh thái. Như trên đã nói, đây vừa là đối tượng khai thác chủ yếu của du lịch vừa thực sự là nguồn lực lâu dài phục vụ cho ngành du lịch phát triển. Vì vậy nếu chỉ mình nhìn thấy lợi ích trước mắt, chỉ coi trọng vấn đề khai thác để thu lợi nhuận thì nguồn lực nào cũng sẽ cạn kiệt nhanh chóng. Cần phải có sự đầu tư thích đáng đẻ vừa nghiên cứu khai thác vừa có sự bảo tồn và bản quản lâu dài vốn quý của dân tộc mà du lịch được thừa hưởng trực tiếp. Khắc phục tình trạng hiện nay nguồn thu từ du lịch khá lớn nhưng chủ yếu đầu tư vào khách sạn, nhà hàng là chưa thoả đáng, mà cần thiết phải có đầu tư vào việc nghiên cứu, bảo tồn và bảo quản các di tích, xây dựng các làng văn hoá bao gồm cả việc đầu tư để bảo tồn các sinh hoạt văn hoá truyền thống của cơ cấu làng xã truyền thống Việt Nam ….
Bài tham khảo 2:
Đẩy mạnh tuyên truyền luật di sản văn hoá và Nghị định hướng dẫn thi hành nhằm nâng cao ý thức của toàn xã hội, của các ngành các cấp đối với sự nghiệp bảo vệ di sản văn hoá nói chung và bảo tồn di tích nói riêng.
– Tăng cường quản lý Nhà nước đối với bảo tồn di tích, kiên quyết xử lý các vi phạm làm tổn hại đến di tích. Tập trung giải quyết dứt điểm và coi trọng điểm những vụ việc vi phạm nghiêm trọng ở các di tích cấp quốc gia. Đẩy mạnh sự phối hợp liên ngành, liên cơ quan để tạo điều kiện cho ngành du lịch phát triển và cần có sự thống nhất quản lý Nhà nước, những qui định, qui trình và nội dung, hướng dẫn tham quan, nghiên cứu tại các di tích cũng như việc đầu tư bảo vệ, tôn tạo các di tích, cảnh quan môi trường.
– Tăng cường tiến độ trùng tu, bảo quản và phát triển các giá trị văn hoá của di tích trên cơ sở giữ vũng bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc, vừa hiện đại hoá.
– Đẩy mạnh việc giới thiệu di tích ở trong nước và quốc tế, tạo những điều kiện thuận lợi nhất để khách tham quan đến với di tích. Tổ chức nghiên cứu, giới thiệu rộng rãi các giá trị tiêu biểu của di tích ra thị trường trong và ngoài nước. Tổ chức các hoạt động và cơ sở dịch vụ du lịch có khoa học và hợp lý ở ngay tại các điểm di tích.
– Hiện đại hoá các sản phẩm du lịch, tạo ra các sản phẩm du lịch đã được chọn lọc, chất lượng có tính chất độc đáo, hấp dẫn đủ độ tin cậy. Phát triển nhiều loại hình du lịch trên cơ sở khai thác các giá trị của những di tích: Du lịch khảo cổ, du lịch tham quan, du lịch lễ hội, du lịch làng nghề…
– Xây dựng phong trào quần chúng tham gia vào các hoạt động bảo vệ di tích theo hướng xã hội hoá sâu rộng. Chú trọng tuyên truyền thu hút thế hệ trẻ đến với di sản văn hoá dân tộc nói chung ra di tích nói riêng, họ phải trở thành lực lượng nòng cốt trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của di tích.
– Sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí đầu tư của Nhà nước và sự đóng góp của nhân dân cho công tác bảo tồn di tích. Đẩy mạnh việc ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ thông tin vào việc bảo tồn di tích.
Nói tóm lại, di tích nói riêng và di sản văn hoá dân tộc là tài sản vô giá là cha ông đã để lại cho chúng. Các thế hệ hôm nay và mai sau phải bảo vệ, phải tu bổ tôn tạo và phát huy tác dụng nhũng giá trị của nó và đó cũng là nghĩa vụ trách nhiệm rất vẻ vang của mỗi chúng ta để có thể phục vụ thiết thực những yêu cầu xã hội đặt ra trong thời kỳ công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.
Chương trình hành động quốc gia về du lịch đến năm 2010 và các sự kiện du lịch năm 2007 là điều kiện và cơ sở vững chắc cho ngành Du lịch Việt Nam bước vào thể kỷ 21. Chúng ta hãy biết tận dụng sự kết hợp giữa bảo tồn di tích và phát triển du lịch để làm bật dậy những sức hút kỳ lạ, những hấp dẫn rất đặc biệt của các di tích của các vùng du lịch trên đất nước ta, biến những tiềm năng du lịch thành hiện thực, đóng góp phần làm giàu đẹp thêm cho đất nước, nâng cao hình ảnh về đất nước và con người Việt Nam trong tiến trình hội nhập thế giới.
Bài tham khảo 3:
Thời gian qua, các loại hình du lịch, nhất là du lịch di sản vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nhiều chuyển biến, đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội các địa phương. Song, du lịch di sản cũng gây không ít tác động tiêu cực đến việc bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa. Do đó, việc thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển du lịch là vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta.
Du lịch di sản phát triển khá mạnh mẽ và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đây là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở khai thác các giá trị di sản văn hóa, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Du lịch di sản có nhiều loại hình khác nhau, như du lịch tâm linh, du lịch cội nguồn, du lịch trải nghiệm văn hóa,…
Du lịch tâm linh (du lịch tín ngưỡng) là loại hình du lịch di sản phổ biến, thu hút được đông đảo du khách. Du lịch tâm linh đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu tín ngưỡng, tôn giáo thông qua những lễ nghi của cá nhân và cộng đồng. Có thể phân chia du lịch tâm linh thành du lịch tâm linh ở miền núi, miền biển hoặc đồng bằng (như các tuyến du lịch tâm linh dọc theo sông Hồng, theo sông Lô, tuyến du lịch tâm linh về Nam Định, Ninh Bình…); hoặc dựa theo thời điểm tổ chức các sự kiện du lịch tâm linh để phân loại (như hành hương mùa xuân, mùa thu…). Mỗi loại hình tôn giáo, tín ngưỡng, như Phật giáo, Đạo giáo, Đạo Mẫu, Thiên Chúa giáo… đều có đặc điểm riêng về du khách, dịch vụ, các điểm, tuyến tham quan, hình thức tham gia các sự kiện, các kiểu hành hương (du lịch lễ hội Đền Hùng, Đền Bà Chúa kho…)… Các địa điểm đó thực chất là những di sản văn hóa, bao gồm các đền, miếu, chùa, nhà thờ…; đồng thời, các tuyến đường hành hương cũng trở thành tài nguyên di sản dựa trên vai trò lịch sử của chúng đối với thực hành hành hương. Các hình thức thờ cúng, nghi thức tôn giáo, lễ hội thực hiện tại địa điểm được tôn kính cũng trở thành một phần của di sản văn hóa phi vật thể. Đó thực sự là nguồn tài nguyên di sản văn hóa tâm linh có sức hấp dẫn lôi cuốn hàng vạn người tham gia, như hành hương về giỗ tổ Đền Hùng (tỉnh Phú Thọ), Miếu Bà chúa Xứ Núi Sam (tỉnh An Giang), Quốc mẫu Tây Thiên (tỉnh Vĩnh Phúc)…
Du lịch cội nguồn là loại hình du lịch di sản đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, giáo dục truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó là các hành trình về nguồn, như thăm căn cứ địa Việt Bắc, căn cứ miền Đông Nam Bộ, hoặc thăm lại các chiến trường xưa…
Du lịch trải nghiệm văn hóa đáp ứng nhu cầu khám phá văn hóa của du khách, nhất là giới trẻ, cư dân ở các đô thị và đang trở thành một xu hướng của du lịch hiện nay. Nhiều du khách trong nước và quốc tế muốn được trải nghiệm nền văn hóa nông nghiệp, khám phá kỹ thuật canh tác, tri thức địa phương, như các phương thức canh tác ở miền núi (cách làm ruộng bậc thang…), các ngành, nghề thủ công (chạm khắc bạc của người Mông, người Dao; dệt thổ cẩm của người Tày, người Thái, người Mường; làm gốm của người Chăm,…).
Ngoài ra, ở Việt Nam, tham quan hệ thống các bảo tàng, như Bảo tàng Quốc gia, Bảo tàng Dân tộc học, Bảo tàng Phụ nữ, Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế…; thăm các khu phố cổ, các làng cổ, kinh đô cổ như phố cổ Hội An, Kinh đô Huế, phố cổ Hà Nội, làng cổ Đường Lâm,… cũng là một loại hình du lịch di sản. Du lịch di sản không chỉ có chức năng khám phá, nâng cao hiểu biết, mà còn có chức năng giáo dục truyền thống văn hóa của quê hương, đất nước, giáo dục lòng yêu nước, ý thức dân tộc trong mỗi người dân.
Bài tham khảo 4:
Vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta có hệ thống di sản văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng. Đây là nguồn tài nguyên du lịch quan trọng, là tiềm năng, lợi thế so sánh trong phát triển du lịch. Hầu hết các tỉnh miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số trong các cuộc kháng chiến của dân tộc là những căn cứ địa quan trọng. Ngày nay, những căn cứ địa đó trở thành hệ thống các di tích lịch sử cách mạng, như ATK Định Hóa (tỉnh Thái Nguyên) và ATK Sơn Dương (tỉnh Tuyên Quang), khu di tích Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy, chấn động địa cầu, các di tích ở Liên khu V, Trường Sơn – Tây Nguyên…
Bên cạnh đó, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn là vùng văn hóa đa dạng với nhiều sắc thái văn hóa đặc sắc, hấp dẫn. Đây là nguồn lực văn hóa giàu giá trị, trực tiếp tạo nên các sản phẩm du lịch di sản mang tính đặc thù, như sản phẩm du lịch mang dấu ấn người Mông, người Dao, người Xa Phó, người Tày trên đỉnh núi Sa Pa (tỉnh Lào Cai)…; sản phẩm du lịch phản ánh sự thích ứng với môi trường, như những khu ruộng bậc thang kỳ vĩ ở Mù Cang Chải (tỉnh Yên Bái), Hoàng Su Phì (tỉnh Hà Giang), Bát Xát (tỉnh Lào Cai). Các loại hình canh tác trên nền đất dốc, trên ruộng bậc thang hay những thung lũng ven sông, ven suối đều tạo ra vẻ đẹp hấp dẫn của du lịch trải nghiệm… Như vậy, tính đa dạng, phong phú của các di sản văn hóa tộc người đã tạo nên sức hút cho du lịch di sản.
Di sản văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa của các dân tộc khác nhau còn là nguồn lực để xây dựng các điểm, tuyến du lịch, như tuyến du lịch vòng cung Tây Bắc nối liền 6 tỉnh Tây Bắc hấp dẫn du khách bởi tính chất kỳ vĩ của thiên nhiên và sự phong phú văn hóa của gần 30 dân tộc; tuyến du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc”; tuyến du lịch tìm hiểu không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên…
Nhờ vào hệ thống di sản văn hóa phong phú, tính đến năm 2019, các tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên đã có khoảng 170 điểm du lịch cộng đồng, thu hút đông đảo khách du lịch trong nước và quốc tế. Điển hình như du lịch cộng đồng người Thái ở Bản Mển (xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) và Bản Áng (xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La); du lịch cộng đồng người Hà Nhì ở xã Y Tí (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai); du lịch cộng đồng người Mường ở Bản Lác (xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình); du lịch cộng đồng người Mông ở bản Cát Cát (xã San Sả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai); du lịch cộng đồng người Dao ở bản Nậm Đăm (xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang),…
Di sản văn hóa tộc người bổ sung các loại hình dịch vụ mới cho du lịch. Ở các điểm du lịch cộng đồng, người dân sáng tạo các loại hình vận chuyển du khách mới, như đi bằng xe trâu, cưỡi ngựa đến nhà lưu trú tham quan các điểm di tích trong làng. Ở một số làng du lịch cộng đồng ở Sa Pa, người dân đi qua suối bằng cầu mây, thậm chí có nơi còn tổ chức cho nam, nữ thanh niên du khách đi cà kheo tham quan cánh đồng. Dịch vụ ẩm thực thực sự trở thành một lĩnh vực có nhiều sáng tạo phát huy di sản ẩm thực truyền thống. Đến làng người Mông, người Thái, người Dao, người Mường…, du khách còn được thưởng thức các món ẩm thực đặc trưng của từng tộc người. Không chỉ được thưởng thức mà du khách còn được tham gia trải nghiệm, làm bếp với các món thắng cố, mèn mén của người Mông, ủ men rượu của người Tày, người Hà Nhì, thổi xôi bảy màu của người Nùng,… Không chỉ tổ chức trải nghiệm việc ngủ trên những căn nhà truyền thống, một số điểm du lịch có sáng kiến tổ chức ngủ lều, ngủ trên cây. Có thể thấy, trong tất cả các khâu kinh doanh du lịch, di sản văn hóa đều đóng vai trò quan trọng, góp phần tăng sức hút du khách, tạo nên nét đặc thù, bản sắc riêng của sản phẩm du lịch.
Du lịch di sản ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế – xã hội của người dân. Trước hết, du lịch di sản góp phần chuyển đổi sinh kế, nâng cao thu nhập cho cộng đồng các dân tộc tham gia vào các chuỗi du lịch. Người Dao ở các xã Tả Phìn, Tả Van, Nậm Cang,… (huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai) đã chuyển từ độc canh cây lúa sang làm du lịch. Mỗi năm, các điểm du lịch của người Dao đón hơn 4 vạn du khách, tổng nguồn thu ước đạt hơn 20 tỷ đồng. Năm 2017, thu nhập bình quân từ du lịch di sản của mỗi hộ gia đình người Dao ở Tả Phìn, Tả Van là khoảng 25 triệu – 60 triệu đồng; đến năm 2019, con số này tăng lên 50 triệu – 75 triệu đồng.
Các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc,… đã quy hoạch và xây dựng các di tích trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành các điểm du lịch tâm linh hấp dẫn, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Trước khi được quy hoạch xây dựng điểm du lịch, mỗi năm đền Bảo Hà (tỉnh Lào Cai) chỉ thu được khoảng 6 tỷ đồng, đền Đông Cuông (tỉnh Lào Cai) thu 5 tỷ đồng, các di tích thờ Mẫu ở tỉnh Tuyên Quang chỉ thu được chưa đầy 10 tỷ đồng,… Nhưng sau 2 năm thực hiện xây dựng điểm du lịch tâm linh, chuyển đổi mô hình quản lý, tăng cường xúc tiến quảng bá, nguồn thu các điểm du lịch tâm linh đã tăng đột biến. Năm 2019, điểm du lịch di tích quốc gia đền Bảo Hà (tỉnh Lào Cai) thu 45 tỷ đồng; các điểm du lịch tâm linh ở các huyện và thành phố của tỉnh Tuyên Quang thu hơn 30 tỷ đồng; điểm du lịch ở di tích quốc gia đền Đông Cuông thu gần 20 tỷ đồng,… Nguồn thu lớn của các điểm du lịch đã hỗ trợ cho việc trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử ở trong vùng.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!