Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
Chế Lan Viên (1920-1989) là nhà thơ giàu tài năng và sáng tạo. Hơn một nửa thế kỉ làm thơ, cảm hứng thơ của ông dào dạt như một dòng sông vỗ sóng. Từ Điêu tàn đến Ánh sáng và phù sa, hành trình thơ của Chế Lan Viên “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”, vượt qua quá khứ nặng nề, u buồn, đến với cuộc đời, với nhân dân và đất nước.
Bài thơ Tiếng hát con tàu rút từ tập Ánh sáng và phù sa là khúc hát say mê mang hương vị và tình yêu cuộc đời. Nhà thơ ví tâm hồn mình như con tàu “uống vầng trăng”, vùn vụt tiến lên phía trước đầy hăm hở trong bài ca xây dựng cuộc đời. Đến với Tây Bắc là trở về với nhân dân – những con người tình nghĩa. Đến với Tây Hắc là đến với “xứ thiêng lièng rừng núi đã anh hùng”. Suốt những năm dài kháng chiến được sống trong lòng nhân dân, bước chân nhà thơ đã đi qua nhiều miền đất nước: khu Bốn, khu Ba, Việt Bắc, Tây Bắc.. Bao kỉ niệm đầy ắp trong lòng về những con người, về những miền quê xa lạ, Trong hoài niệm, nhà thơ ân tình hát lên. Đây là đoạn thơ tiêu biểu trong phần hai bài Tiếng hát con tàu:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ …
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Nỗi nhớ Tây Bắc đầy vơi trong lòng. Nhớ núi rừng, nhớ làng bản, nhớ những con đèo mây tráng phủ mờ, nhớ những “Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất”. “Bản sương giăng” và “’đèo mây phủ” gợi tả cảnh núi rừng mịt mù, xa xôi nghìn trùng cách trở. Hai chữ “nhớ” trong vần thơ diễn tả sự tha thiết bồi hồi. Câu thơ cân xứng qua hai vế tiểu đối: “Nhớ bản sương giăng / / nhớ đèo mây phủ” với bao ân tình thương nhớ.
Bao năm tháng qua, những dốc núi đèo cao, những làng bản mù sương, những nẻo đường một thời gian khổ vẫn còn vương vấn trong lòng. Những kỉ niệm đẹp một thời máu lửa đâu dễ quên. Nhà thơ tự hỏi lòng mình: “Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?”. Cùng là để khẳng định mình với tất cả niềm tự hào sâu sắc. Giọng thơ sâu lắng, êm ái, ngọt ngào. Nỗi nhớ và “yêu thương” cũng là tình cảm của người chiến sĩ Tây Tiến với núi rừng và con sông Mã miền Tây: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”. Câu thơ cùa Chế Lan Viên hàm chứa tình cảm đẹp, đồng thời phát hiện chiều sâu của tâm hồn và quy luật tình cảm cùa con người. Đó cũng là sự tổng kết đường đời, cách sống, đạo lí sống của người cán bộ kháng chiến. Hai câu thơ tiếp theo cấu trúc song hành, ánh lên vẻ đẹp trí tuệ. Đó là nét đặc sắc trong thơ Chế Lan Viên:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn.
“Khi ta ở” rồi “khi ta đi” đã trải qua nhiều năm tháng. Hai cảnh ngộ, hai hoàn cảnh sống đã đổi thay. Thời gian và không gian, ở và đi, quá khứ và hiện tại không làm cho lòng dạ đổi thay, trái lại “đất đã hóa tâm hồn”, “nơi đất ở” trước đây, nay có sự chuyển hóa kì lạ: “Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”. Kẻ vô tâm và bất nghĩa thì “đi” là hết: “nơi đất ở” chỉ còn lại sự dửng dưng mà thôi. Có sống hết mình, sống đẹp với “nơi đất ở” thì khi xa cách, lòng ta mới mang theo bao kỉ niệm vui, buồn sâu sắc. Câu thơ là tiếng nói tình nghĩa ở đời, là niềm tự hào về cách ăn ở thủy chung sắt son. Tây Bắc – mảnh đất thiêng liêng, anh hùng đã mang tình sâu nghĩa nặng đối với nhà thơ và bao chiến sĩ. Bao chiến sĩ đã đem xương máu thắp sáng ngọn lửa Điện Biên thần kì. Mảnh đất ấy có bao con người tình nghĩa, để thương để nhớ trong lòng ta. Là anh du kích: “Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn – Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách – đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”. Là bà mế “lửa hồng soi tóc bạc”, tuy “không phải hòn máu cắt”. Nhưng “trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”. Là cô gái Tây Bắc “Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng”, để lại nhiều bâng khuâng “Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”. Vì thế thật là dễ hiểu mảnh đất ấy cùng với những con người như thế ấy sao mà “lòng lại chẳng yêu thương?’’. Có trải nghiệm, mới thấm thía vị đời và tình đời sâu nặng, mới cảm được cái diệu kì mơ hồ mà hiện hũu nơi sâu thẳm lòng người: “Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!