So sánh hình ảnh nồi cháo cám và bát cháo hành (3 Mẫu) – Văn 12
So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt gồm 2 dàn ý chi tiết kèm theo 3 bài văn mẫu. Qua đó giúp các bạn cảm nhận được tình người, tình thương đầy suy ngẫm, trăn trở cho giá trị sống, giá trị làm người khi có mặt ở trên đời.
Cảm nhận chi tiết bát cháo hành và bát cháo cám mang lại cho các em học sinh nhiều tài liệu học tập tốt nhất, giúp các bạn cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm, thêm nhiều ý tưởng mới khi viết văn. Vậy sau đây là nội dung chi tiết mời quý thầy cô và các bạn cùng tham khảo trong bài viết dưới đây.
Đề bài: Cảm nhận của anh/ chị về chi tiết bát cháo hành trong truyện Chí Phèo (Nam Cao) và bát cháo cám trong truyện Vợ nhặt (Kim Lân).
Dàn ý so sánh hình ảnh bát cháo hành và cháo cám
Dàn ý mẫu 1
I. Mở bài:
- Giới thiệu Nam Cao, truyện Chí Phèo và chi tiết bát cháo hành
- Giới thiệu Kim Lân, Truyện Vợ nhặt và chi tiết bát cháo cám
Mở bài tham khảo:
Nam Cao và Kim Lân đều là những cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Điểm chung của hai nhà văn là họ đều có những truyện ngắn giản dị nhưng chứa chan tinh thần nhân đạo.Hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đều là những hình ảnh đặc sắc, góp phần thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các tác phẩm và tài năng của các nhà văn.
II. Thân bài: lần lượt phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh, sau đó so sánh điểm giống và khác nhau
1. Hình ảnh bát cháo hành:
* Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở phần giữa truyện. Chí Phèo say rượu, gặp Thị Nở ở vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở – Chí Phèo. Sau hôm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương tình đã về nhà nấu cháo hành mang sang cho hắn.
* Ý nghĩa:
– Về nội dung:
- Thể hiện tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo
- Là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng
- Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí : gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo.
– Về nghệ thuật:
- Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.
- Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người.
2. Hình ảnh nồi cháo cám:
* Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ.
* Ý nghĩa:
– Về nội dung:
+ Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, cực khổ và rẻ mạt của người nông dân trong nạn đói 1945.
+ Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ:
- Bà cụ Tứ gọi cháo cám là ” chè khoán”, bà vui vẻ, niềm nở, chuyện trò với các con ->> là người mẹ nhân hậu, thương con, và có tinh thần lạc quan. Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí vui vẻ hơn.
- Vợ Tràng đã có sự thay đổi về tính cách. Hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Chứng tỏ, Thị không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
– Về nghệ thuật: Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
3. So sánh:
– Giống nhau:
- Cả 2 hình ảnh đều là biểu tượng của tình người ấm áp.
- Đều thể hiện bi kịch của nhân vật và hiện thực xã hội: Ở “Chí Phèo” là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người [bát cháo hành rất bình dị, thậm chí là nhỏ bé, tầm thường nhưng đó là lần đầu tiên Chí được cho mà không phải đi cướp giật]. Ở “Vợ nhặt”, số phận con người cũng trở nên rẻ mạt.
- Đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương con người của các nhà văn.
– Khác nhau:
- Bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vô nhân tính của XH thực dân nửa phong kiến cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao.
- Nồi cháo cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức tỉnh ở Tràng khả năng cách mạng. Như vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4. Lí giải sự giống và khác nhau đó:
- Do hai nhà văn đều viết về người nông dân trong nạn đói 1945
- Có sự khác nhau đó là do ảnh hưởng của lí tưởng Cách mạng với mỗi nhà văn . Nam Cao có cái nhìn bi quan, bế tắc về số phận của người nông dân. Kim Lân có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
Dàn ý số 2
Đến với mỗi tác phẩm văn học, ta tìm thấy ở đó những hình tượng, chi tiết nghệ thuật khác nhau mang giá trị tư tưởng, tình cảm của tác giả, cũng như dụng ý nghệ thuật mà nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc. Qua tác phẩm “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao, hình ảnh bát cháo hành trở thành mấu chốt thức tỉnh một con người. Không chỉ thế, khi trải lòng với “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, hẳn là trong lòng độc giả không thôi day dứt với hình ảnh bát cáo cám đầy ám ảnh.
1. Bát cháo hành trong “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao:
– Hình ảnh bát cháo hành gắn liền với một tình cảm đặc biệt được ưu ái dành cho tên gọi “đôi lứa xứng đôi” giữa Chí Phèo và Thị Nở. Anh Chí – một con người vốn “lành như đất”, trải qua bao thăng trầm cuộc đời, bị bỏ rơi, bị bán đi, bị xúc phạm, bị đè bẹp… để rồi trượt dài trên dốc của sự tha hóa và trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bàn tay của bọn cường hào ác bá (mà Bá Kiến là một trong số đó) và nhà tù thực dân đã không cho Chí Phèo được lương thiện. Bị xa lánh, hắt hủi, những cơn say, những lần rạch mặt ăn vạ… ta cứ tưởng cuộc đời của Chí sẽ cứ trượt dài, trượt dài tận đáy dưới lớp của một con thú. Thế nhưng, chính bát cháo hành mà Thị Nở tự tay mang đến cho anh đã thức tỉnh một trái tim, một tâm hồn cũng biết rung động, một con người cần sự ấm áp, khao khát được thương yêu.
– Ý nghĩa của hình ảnh bát cháo hành:
+ Về nội dung:
- Tình yêu thương, chăm sóc, tình người mà Thị Nở dành cho Chí Phèo trong lúc ốm đau, bệnh tật: “mình bỏ hắn lúc này cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng” thấy ngường ngượng mà thinh thích…”
- Là lần đầu tiên Chí được chăm sóc bởi bàn tay của một người đàn bà, đầy yêu thương, ấm áp của một gia đình: “có ai nấu cho mà ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay đàn bà” và hắn cảm thấy cháo hành tuy đơn giản nhưng thật sự rất ngon và hắn tự hỏi: “tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo?”.
- Là một liều thuốc giải cảm và giải độc cho tâm hồn Chí -> từ sự ngạc nhiên, rồi hắn xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Sau khi ăn bát cháo hành, Chí đã ước ao tha thiết được trở về với cuộc đời lương thiện. -> Bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo -> khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện và chính Thị sẽ giúp hắn hòa nhập.
– Về nghệ thuật:
- Là chi tiết rất quan trọng, mấu chốt để thúc đẩy sự tình huống truyện phát triển, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.
- Góp phần thể hiện một cái nhìn tư tưởng sâu sắc của nhà văn Nam Cao: tin tưởng vào sự lương thiện và tình người, vào sự tốt đẹp của con người.
2. Bát cháo cám trong “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân:
– Để bắt đầu một ngày mới thật khác với sự xuất hiện của thành viên mới trong gia đình, mẹ của Tràng đã đặc biệt chuẩn bị một món ăn dù “đắng chát, nghẹn bứ” nhưng bà cụ vẫn khen “ngon đáo để” – đó chính là nồi cháo cám. Trong nạn đói, người ta vẫn khao khát một hạnh phúc ấm êm bên gia đình. Chi tiết mang nhiều dụng ý nghệ thuật mà Kim Lân muốn gửi gắm đến bao thế hệ bạn đọc.
– Ý nghĩa:
+ Về nội dung:
Nồi cháo cám là món ăn xua đi cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới mà gia đình Tràng đón nàng dâu mới về. Trong hoàn cảnh nạn đói đang dần bao trùm cái không khí u ám, chết chóc lên khắp ngôi làng, khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy” số phận nghèo khổ, rẻ mạt của người dân trong nạn đói, thì nồi cháo cám ấy trở thành một niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà họ có.
+ Về nghệ thuật:
- Qua ngòi bút của nhà văn, tâm lý nhân vật hiện lên rõ nét và vô cùng sâu sắc, thể hiện giá trị nhân đạo, nhân văn của tác phẩm:
- Bà cụ Tứ: một người mẹ đảm đang, giàu tình yêu thương con, trọng nghĩa tình (dù trong cảnh đói kém vẫn cưu mang, đùm bọc thị). Mặc dù đã già, bà vẫn dậy sớm chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà; hơn thế nữa là trong hoàn cảnh đói khổ và cái chết đang rình rập, bà vẫn cố gắng để có được bữa tiệc cưới giản dị cho con trai của mình.
- Vợ Tràng: sự thay đổi về tính cách: hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng – không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà cô đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
- Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng sống và hạnh phúc.
3. So sánh:
a. Điểm giống:
- Biểu hiện của tình người ấm áp, bao dung.
- Qua đó, thể hiện sâu sắc bi kịch của nhân vật, và tái hiện lại hiện thực xã hội: bi kịch bị tha hoá + bị cự tuyêt quyền làm người (bát cháo hành) -> dù Chí muốn lương thiện nhưng cách duy nhất là cái chết để không bị tha hóa nhân cách của chính mình. Bát cháo cám: thể hiện hiện thực tàn khốc của nạn đói (cám vốn là thức ăn của con vật thế nhưng giờ đây lại trở thành món ăn quý giá, đặc biệt của một gia đình).
=> Cái nhìn hiện thực độc đáo, tinh thần nhân đạo.
b. Điểm khác nhau:
- Bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo, thế nhưng những định kiến và cái hiện thực xã hội đương thời đã đẩy Chí vào đường cùng -> chế độ thực dân tàn bạo. Bên cạnh đó, đó cũng là cái nhìn bế tắc của Nam Cao đối với người nông dân – cảm quan hiện thực của nhà văn trước CMT8.
- Bát cháo cám: là biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nan đói. Niềm tin vào khả năng cách mạng của người dân của Kim Lân (sau bát cám thị nhắc đến đoàn người đói, là cờ Việt Minh… Tràng dường như nhận ra con đường tươi sáng hơn, tin vào Cách mạng) -> cảm quan nhà văn sau CMT8.
4. Đánh giá:
Bên cạnh những điểm tương đồng trong cái nhìn đầy nhân đạo và nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tài tình của nhà văn, mỗi chi tiết nghệ thuật lại hiện lên với vẻ đẹp khác nhau, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của cốt truyện, đem đến cho người đọc những áng văn bất hủ, giàu giá trị. Nam Cao và Kim Lân chính là những “hóa công” đã xây nên hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc, đầy ý nghĩa này.
Cảm nhận hình ảnh bát cháo hành và nồi cháo cám – Mẫu 1
Nam cao và Kim Lân đều là những cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Điểm chung của hai nhà văn là họ đều có những truyện ngắn giản dị nhưng chứa chan tinh thần nhân đạo.Hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đều là những hình ảnh đặc sắc, góp phần thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các tác phẩm và tài năng của các nhà văn.
Chúng ta lần lượt phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh để nhận thấy điểm giống và khác nhau của những chi tiết đặc sắc này.Trước hết làm sao ta có thể quên được hình ảnh bát cháo hành: Sự xuất hiện: Hình ảnh này ở phần giữa truyện ngắn. Chí Phèo đang say rượu, gặp Thị Nở ở vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở – Chí Phèo. Sau hôm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương tình đã về nhà nấu cháo hành mang sang cho hắn. Trước hết ta cần phải bàn tới ý nghĩa về mặt nội dung của hình ảnh bát cháo hành của tác phẩm. Đầu tiên ta có thể khẳng định chi tiết trên là một điểm sáng của tác phẩm,nó hội tụ tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo. Là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng. Bát cháo ấy vừa giản dị nhưng đó chính là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn anh Chí : gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo. Và hãy thử hình dung, nếu như không có tác phẩm trên tới bao giờ anh Chí của ngày xưa mới trở về mà nhận ra mình vẫn còn có thể trở về với lương thiện, với ước mơ nhỏ bé giản dị là một mái ấm gia đình.
Xét về góc độ nghệ thuật, bát cháo hành là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.Chi tiết này góp phần thể hiện sinh động tư tưởng của ngòi bút Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người.
Đặt bên cạnh hình ảnh bát cháo hành thì làm sao ta có thể quên được chi tiết nồi cháo cám trong tác phẩm vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Sự xuất hiện Hình ảnh này vị trí là nằm ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ.Khi ta biết rằng bữa ăn đầu tiên của con dâu về nhà chồng vốn dĩ phải là một bữa ăn đầy đủ và thịnh soạn, thì trái với lẽ thường, đó là một bữa ăn có mùi vị khó chịu, người đọc làm sao có thể quên được chi tiết này, vừa đau đớn mà vừa xót xa cho đôi vợ chồng son trong cảnh đói.Xét về mặt ý nghĩa nội dung. Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, cực khổ và rẻ mạt của người nông dân trong nạn đói 1945. Từ chi tiết nồi cháo cám,đó chính là nút thắt để tác giả tập trung lách sâu ngòi bút của mình khắc họa tính cách của nhân vật trong thế giới truyện được bộc lộ. Bà cụ Tứ gọi cháo cám là “chè khoán”, bà vui vẻ, niềm nở, chuyện trò với các con ->> là người mẹ nhân hậu, thương con, và có tinh thần lạc quan. Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí vui vẻ hơn.
Vợ Tràng đã có sự thay đổi về tính cách. Hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Chứng tỏ, Thị không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.Về phương diện nghệ thuật: Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
Từ hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc, người yêu văn chương dễ dàng nhận ra sự đồng điệu của chúng.Cả hai hình ảnh đều là biểu tượng của tình người ấm áp.Mặt khác, cả hai chi tiết nghệ thuật này đều thể hiện bi kịch của nhân vật và hiện thực xã hội: Ở “Chí Phèo” là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người (bát cháo hành rất bình dị, thậm chí là nhỏ bé, tầm thường nhưng đó là lần đầu tiên Chí được cho mà không phải đi cướp giật). Ở “Vợ nhặt”, số phận con người cũng trở nên rẻ mạt( theo không về làm dâu cũng chỉ bằng bốn bát bánh đúc), bữa ăn đầu tiên con dâu về nhà chồng cũng chỉ đơn thuần là một nồi cám lợn chẳng hơn.Thế nhưng hai chi tiết này đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương con người của các nhà văn vượt lên số phận.
Bên cạnh những điểm đồng điệu của hai nhà văn với các chi tiết nghệ thuật độc đáo thì ta cũng nhận thấy sự khác nhau ở đây.Nếu bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vô nhân tính của XH thực dân nửa phong kiến cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao.Thế nhưng nồi cháo cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức tỉnh ở Tràng khả năng cách mạng. Như vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật, dưới sự lãnh đạo của Đảng.Đó là sự khác biệt về cái nhìn của một nhà văn trước cách mạng, còn một nhà văn là lá cờ đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại khi được giác ngộ lý tưởng vào ngòi bút của mình.Ta có thể lí giải tường tận sự giống và khác nhau đó.Khi hai nhà văn đều viết về người nông dân trong nạn đói 1945.Có sự khác nhau đó là do ảnh hưởng của lí tưởng Cách mạng với mỗi nhà văn . Nam Cao có cái nhìn bi quan, bế tắc về số phận của người nông dân. Kim Lân có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng
Nếu như trong một tác phẩm thơ điều làm nên ấn tượng là nhãn tự của bài thơ nhiều khi chỉ là một chữ một từ một tiếng gồm trọn cả ý tứ của thi phẩm. Thì trong một tác phẩm tự sự, yếu tố then chốt gây xúc động mạnh trong lòng người đọc đó chính là chi tiết nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm. Với bát cháo hành của Chí Phèo – Nam Cao đã tạo ra bước ngoặt trong sự thức tỉnh của người nông dân bị tha hóa biến chất. Thì trở lại với nồi cháo cám của Vợ Nhặt – Kim Lân đó chính sự lấn át của tình người trước cảnh đói, ông đã thực sự thành công khi khẳng định sức mạnh tình thương sẽ dìu dắt con người vượt qua tăm tối.
Cảm nhận hình ảnh bát cháo hành và nồi cháo cám – Mẫu 2
Bên cạnh dòng văn học lãng mạn, văn học hiện thực Việt Nam cũng đạt được những thành tựu rực rỡ, với những tác phẩm nổi tiếng. Trong số những ngôi sao của làng văn học hiện thực ta không thể không nhắc đến Nam Cao và Kim Lân. Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc với tác phẩm nổi tiếng Chí Phèo – là kết tinh nghệ thuật trong đời văn ông. Còn Kim Lân có sở trường viết truyện ngắn về nông thôn và người nông dân với tác phẩm để đời Vợ nhặt. Ở cả hai tác phẩm này đều có những chi tiết nghệ thuật đặc sắc bát cháo hành (Chí Phèo), nồi cháo cám (Vợ nhặt) góp phần thể hiện tư tưởng cũng như tài năng nghệ thuật của hai tác giả.
Chi tiết bát cháo hành xuất hiện ở phần giữa của tác phẩm Chí Phèo. Chí Phèo sau khi đi uống rượu nhà Tư Lãng, trở về căn lều của mình, trên đường trở về hắn thấy khó chịu nên không về nhà ngay mà rẽ xuống sông tắm, ở đây hắn đã gặp thị Nở đang nằm ngủ cạnh bụi chuối. Dưới ánh trăng mờ ảo, khung cảnh hữu tình đã nảy nở tình yêu giữa thị Nở và Chí Phèo. Đến nửa đêm, Chí Phèo bị cảm, nôn thốc, nôn tháo, thị Nở là người đã dìu Chí vào lều, đắp cho manh chiếu và trở về nhà. Nhưng khi về đến nhà thị vẫn chưa yên tâm, bởi: Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ, thương cho Chí chỉ có một thân một mình thị Nở quyết định sẽ nấu cháo mang cho Chí Phèo giải cảm. Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa, giàu giá trị biểu đạt.
Bát cháo là sự quan tâm, chăm sóc ân cần không vụ lợi toan tính của thị Nở dành cho Chí Phèo. Sau cái đêm ăn nằm với nhau thị cảm thấy mình có trách nhiệm phải quan tâm, giúp đỡ Chí Phèo. Nhưng sâu xa hơn, nó còn xuất phát từ tình yêu thương Thị dành cho Chí: Cái thằng liều lĩnh ấy kể ra cũng đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Đây mới là nguyên nhân gốc rễ dẫn đến hành động thị dành cho Chí. Không chỉ vậy, bát cháo hành đã khơi nguồn, nảy nở tình yêu đẹp đẽ giữa hai con người bất hạnh. Xét ở một khía cạnh nào đó, thị Nở cũng là kẻ bị gạt ra ngoài rìa của xã hội, không tìm được hạnh phúc, bởi vậy, nhờ có bát cháo hành mà thị đã thực sự được làm thiên chức của một người phụ nữ, được quan tâm chăm sóc cho người mình thương.
Không chỉ vậy, bát cháo tuy bé nhỏ về vật chất nhưng lại là niềm an ủi to lớn về tinh thần với Chí Phèo. Đây là tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận trong khi tất cả mọi người đều xa lánh, hắt hủi Chí. Đây cũng hương vị tình yêu, hạnh phúc muộn màng mà Chí được được duy nhất đón nhận một lần. Lần đầu tiên chí được chăm sóc bởi tay một người đàn bà. Bát cháo không chỉ giúp Chí giải cảm, vượt qua cái mệt mỏi về thể xác mà còn giúp Chí thanh lọc, giải độc về tâm hồn. Chí thấy vừa xúc động, vừa vui, vừa buồn vừa như là ăn năn. Nó giúp Chí suy nghĩ về tình trạng thê thảm của bản thân hiện tại khi bị tất cả mọi người ruồng rẫy, gạt ra bên ngoài cuộc sống. Xưa nay hắn chỉ sống bằng cướp giật, dọa nạt. Nếu không còn đủ sức mà cướp giật, dọa nạt nữa thì sao […] Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có lúc mà người ta không thể liều được nữa. Thế mới nguy. Và trong Chí bùng lên khát khao được trở thành người lương thiện, muốn làm hòa với mọi người và thị Nở chính là người sẽ mở đường cho hắn. Như vậy, với Chí Phèo bát cháo hành đã đánh thức phần người, phần nhân tính mà bấy lâu nay bị phần con che lấp mất.
Chi tiết bát cháo hành cũng có giá trị lớn về mặt nghệ thuật. Với chi tiết này đã giúp bộc lộ tính cách nhân vật : Thị Nở yêu thương, quan tâm người khác vô điều kiện, Chí Phèo phục hồi phần nhân tính bị khuất lấp. Không chỉ vậy chi tiết này còn góp phần thúc đẩy truyện phát triển, tạo nên trình tự truyện hợp lí, tự nhiên. Qua đó thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao : tin vào sức mạnh của sự cảm hóa.
Cũng như chi tiết bát cháo hành, chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân cũng chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc. Chi tiết này xuất hiện vào cuối tác phẩm, trong bữa cơm đầu tiên khi cô vợ nhặt bước chân vào nhà anh cu Tràng. Miếng cháo cám đắng ngắt, nhưng họ vẫn lặng lẽ ăn và không ai nói với nhau câu nào nữa.
Trong nạn đói năm 1945, hàng nghìn người chết đói, thì nồi cháo cám đó có đắng chát cũng là phương tiện giúp gia đình Tràng xua tan cơn đói, đây cũng có thể coi là bữa tiệc trong ngày đón nàng dâu mới về. Điều đó đã cho thấy sự nghèo đói và cuộc sống cực khổ của nhân dân ta vào thời điểm năm 1945. Ý nghĩa hơn cả, chi tiết nồi cháo cám còn giúp bộc lộ tính cách nhân vật. Nồi cháo cám được bà cụ Tứ niềm nở bê ra, đã cho thấy đó là một người phụ nữ đảm đang, yêu thương con hết mực. Trong cuộc sống khổ cực như vậy, nhưng bà vẫn tìm mọi cách để đem đến niềm vui nhỏ bé cho đôi vợ chồng trẻ. Đối với người vợ nhặt, tính chao chát, chỏng lỏn đã biến đi đâu mất, thay vào đó là người phụ nữ điềm nhiên, bình tĩnh : người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Người con dâu ấy đã có sự thay đổi về tính nết, chấp nhận hoàn cảnh và trong cô cũng sẵn sàng để cùng gia đình nhỏ bé mới này vượt qua mọi khó khăn. Không chỉ vậy, nồi cháo cám còn là biểu tượng của tình người, của niềm tin và hi vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, họ vẫn không ngần ngại cưu mang thêm một người, sống trong sự đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Quanh nồi cháo cám, bà cụ Tứ nói những chuyện vui, tương lai tốt đẹp để khơi dậy vào cuộc sống mới đẹp đẽ hơn cho đôi vợ chồng trẻ.
Đây là hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc, nó là biểu tượng của tình người ấm áp, của tình yêu thương chân thành con người dành cho nhau trong hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn. Với mỗi chi tiết còn góp phần bộc lộ, sự thay đổi tính cách của nhân vật. Không chỉ vậy nó còn thể hiện bi kịch của con người trong xã hội cũ : Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người, bị xã hội đẩy ra bên lề. Còn cô vợ nhặt, số phận con người cũng trở nên rẻ mạt hơn. Qua các chi tiết này, cả hai tác giả đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, niềm tin vào sức mạnh của tình yêu thương có thể thay đổi, cảm hóa con người.
Bên cạnh những điểm giống nhau, các chi tiết nghệ thuật này cũng có những điểm khác biệt. Bát cháo hành là tình yêu thương chân thành, không toan tính thị Nở dành cho Chí Phèo khi tất cả xã hội đã cự tuyệt Chí, coi Chí như con quỷ và đẩy Chí Phèo vào bước đường cùng. Qua đó, giúp người đọc hình dung được bộ mặt bất nhân, tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến. Còn chi tiết bát cháo cám là biểu tượng không chỉ của tình yêu thương mà còn là niềm tin vào tương lai, hi vọng vào tương lai tốt đẹp, khi trong bữa cơm ấy họ bàn về chuyện Việt Minh. Đó là cái nhìn đầy lạc quan, tin tưởng của Kim Lân vào cuộc sống. Có sự khác biệt như vậy là do phong cách sáng tác của hai tác giả là khác nhau. Không chỉ vậy, yếu tố thời đại chi phối đến nhãn quan của mỗi nhà văn : Nam Cao bi quan, bế tắc, Kim Lân lạc quan, tin tưởng.
Qua những chi tiết nghệ thuật đặc sắc của hai nhà văn người đọc đã thấy được tấm lòng nhân đạo bao la của họ vào con người, luôn mang niềm tin tưởng vào sự cảm hóa qua tình yêu thương. Không chỉ vậy, với các chi tiết nghệ thuật này còn cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của họ.
Cảm nhận hình ảnh bát cháo hành và nồi cháo cám – Mẫu 3
Mỗi một tác phẩm văn học là một đứa con tinh thần của nhà văn chân chính. Trong tác phẩm ấy mỗi hình tượng và chi tiết nghệ thuật đều mang giá trị tư tưởng, tình cảm và dụng ý của tác giả. Nam Cao và Kim Lân là hai nhà văn xuất sắc trên thể loại truyện ngắn viết về người nông dân Việt Nam với tình cảm chân thành và lòng thương yêu vô bờ. Nếu Nam Cao thành công với kiệt tác “Chí Phèo” trong đó có chi tiết bát cháo hành tình người có nhiều ý nghĩa thì Kim Lân với tác phẩm “Vợ nhặt” có bát cháo cám tình thương để lại ấn tượng sâu sắc và nhiều suy ngẫm cho bạn đọc. Dù chỉ là hai chi tiết nghệ thuật xuất hiện ở gần cuối mỗi tác phẩm nhưng có giá trị to lớn, thể hiện quan điểm tư tưởng của nhà văn.
Trước tiên là bát cháo hành thị Nở dành cho Chí. Đây là bát cháo của tình người. Thị và Chí là hai con người cùng cực, thuộc tầng lớp dưới đáy cùng của xã hội. Một kẻ lưu manh trượt dài trên cái dốc tha hóa mất hết nhân hình lẫn nhân tính, một kẻ thuộc dòng giống con nhà mả hủi, xấu ma chê quỷ hờn lại còn nghèo và ngẩn ngơ. Họ bị xã hội ruồng bỏ, bị mọi người xa lánh, họ sống trong cô đơn cô độc giữa cuộc đời. Nhưng trong đêm tình ái ấy hai tâm hồn đồng điệu tìm về với nhau để làm thành “đôi lứa xứng đôi”. Tưởng rằng cuộc đời Chí chìm đắm trong bóng tối, u mê với men say và sống mãi bằng một nghề rạch mặt ăn vạ, cướp của giết người. Sự xuất hiện của thị cùng với bát cháo hành tình người ấy đã khiến hắn thức tỉnh, hồi sinh và khao khát muốn làm người lương thiện, muốn sống cuộc sống để yêu thương và được yêu thương. Bát cháo hành dù chỉ một lần được ăn nhưng nó đã cảm hóa được con quỷ dữ trong Chí. Tình thương, sự cảm thông ấy của thị đến một cách tự nhiên và bình dị nhất khiến Chí ngạc nhiên và xúc động giọt nước mắt con người đã chảy ra bởi đây là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. “Xưa nay nào hắn thấy ai tự nhiên cho hắn cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay cướp giật. Hẳn là phải làm cho người ta sợ.” Ấy thế mà giờ đây hắn hiền như cục đất, mắt hắn hình như ươn ướt. Hắn cảm động bởi sự chân thành của thị, bát cháo hành là hiện thân cho tình người ấm áp, là thuốc giải độc cho cơn sốt bất thường và chữa lành vết thương tâm hồn quặt què bấy lâu nay trong Chí. Chi tiết bát cháo hành trong tác phẩm “Chí Phèo” đẩy mấu chốt của câu chuyện phát triển lên một bước, là điều kiện để Nam Cao khắc họa tâm lí nhân vật, bộc lộ phần người bị vùi lấp trong Chí trỗi dậy, khám phá vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách đáng trân trọng của người đàn bà xấu xí là thị Nở. Qua đó nhà văn thể hiện tư tưởng nhân văn của mình luôn tin vào sự tốt đẹp trong con người lương thiện và khẳng định chỉ có tình người mới cảm hóa được tội ác.
Chi tiết bát cháo cám trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân cũng mang một nét đẹp và giá trị nghệ thuật riêng. Trong nạn đói Ất Dậu năm ấy khiến cho bao nhiêu người dân Việt Nam phải thiệt mạng vì giặc đói hoành hành. Hai mẹ con bà cụ Tứ và thị là những nạn nhân tiêu biểu nhưng cơ duyên và tình thương đã đưa họ về cùng một nhà. Hôm ấy trong bữa cơm đầu tiên đón dâu mới đáng lẽ người ta phải đãi nhau rượu thịt để chúc mừng hạnh phúc thì bà cụ Tứ lại đãi nàng dâu bát cháo cám. Nghe có vẻ nghịch lí nhưng trong hoàn cảnh đó là một “món sang” bởi “xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bát cháo cám đắng chát nghẹn bứ ở cổ nhưng lại có ý nghĩa nhân sinh. Bởi đây là bát cháo của tình thương yêu những người trong gia đình dành cho nhau, bát cháo của những ngày đói khát khó khăn nhưng lại lóe lên hy vọng về một tương lai ngày mai. Bát cháo làm thay đổi tâm lí nhân vật khiến cho bà cụ Tứ_một bà mẹ yêu thương con dù nghèo đói nhưng vẫn cố gắng cưu mang thị, dù đã gần đất xa trời nhưng bà vẫn giàu niềm tin, hy vọng động viên đôi vợ chồng trẻ cố gắng làm ăn “không ai giàu ba họ không ai khó ba đời”, bát cháo khiến cô con dâu hiểu cho hoàn cảnh của gia đình mà thay đổi tính nết không còn “chỏng lỏn”, chua chát như trước. Bát cháo cám là hạnh phúc gia đình trong những ngày đói khát cùng cực.
Như vậy, hình ảnh hai bát cháo có nhiều nét tương đồng sâu sắc. Đó đều là bát cháo bình dị của nông thôn nghèo khó chẳng có thịt đậm hương thơm ngon ngọt mà chỉ là những thứ đơn giản nhất của người nhà nông thậm chí là còn không được nấu bằng gạo mà bằng cám. Tuy nhiên đó là bát cháo hiện thân của tình người đầy bao dung, ấm áp, bát cháo cho con người ta thêm hy vọng để sống có ích có ý nghĩa hơn. Bát cháo hành của thị cho Chí sự hồi sinh và hạnh phúc làm người, bát cháo cám của bà cụ Tứ cho đôi vợ chồng lời động viên chân thành và niềm tin để vượt qua những tháng ngày đói khát cùng cực.
Hình ảnh hai bát cháo mang giá trị hiện thực nghiệt ngã. Chí bị xã hội ruồng bỏ, “Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi khi hắn qua” chỉ có thị là thấy hắn hiền như đất, chỉ có thị là cảm thông và thấu hiểu cho hoàn cảnh của hắn để rồi chỉ một bát cháo và sự chân thành cảm hóa được Chí. Bát cháo cám là hiện hữu của cái nghèo, đói đến đáng sợ. Hiện thực qua hai bát cháo tố cáo xã hội đã đẩy người nông dân như Chí đến mức đường cùng của của thú dữ, đẩy những người nghèo khổ như gia đình Tràng rơi vào hoàn cảnh éo le bên bờ vực giữa sự sống và cái chết mong manh.
Từ giá trị hiện thực ấy mà làm nổi bật lên giá trị nhân đạo, tư tưởng, tình cảm của tác giả được thể hiện và gửi gắm thông điệp đến bạn đọc. Bát cháo hành minh chứng cho sức mạnh của tình người, Nam Cao luôn tin vào giá trị tốt đẹp của con người không bao giờ bị mất đi mà chỉ cần có cơ hội lại trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt. Bát cháo cám cho ta hy vọng dù đứng bên ranh giới sống chết nhưng con người ta vẫn luôn có niềm tin, động viên lẫn nhau cùng vượt qua khó khăn làm nên điều khác biệt khi cùng viết về người nông dân Kim Lân đã từng nói: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.” Dù chỉ xuất hiện ở cuối tác phẩm nhưng chi tiết hai bát cháo rất có ý nghĩa, để lại sự suy tư và ám ảnh cho độc giả.
Mỗi một nhà văn ở một giai đoạn khác nhau nên có cái nhìn và quan điểm khác nhau khi đối diện với hiện thực. Nam Cao viết “Chí Phèo” trước cách mạng tháng Tám nên cái nhìn của ông đối với người nông dân ở giai đoạn này là bế tắc, tuyệt vọng nên kết thúc truyện là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, Chí đã cầm dao đâm chết Bá Kiến và tự sát, thị nhìn xuống cái bụng của mình và hình ảnh cái lò gạch cũ lại thoáng hiện lên. Kim Lân thì lại khác tác phẩm “Vợ nhặt” được viết ngay sau cách mạng tháng Tám thành công nên người nông dân trong truyện luôn có niềm tin vào cuộc sống mới, đặc biệt là kết thúc nhà văn để hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới xuất hiện. Quan điểm tưởng khác nhau nên mới tạo ra sự khác biệt. Cùng viết về một đề tài là người nông dân nhưng trong mỗi tác phẩm người nông dân lại hiện lên khác nhau trong suy nghĩ cho thấy nét độc đáo riêng, thể hiện phong cách văn chương của mỗi nhà văn.
Như vậy chi tiết bát cháo hành trong “Chí Phèo” của Nam Cao và bát cháo cám trong “Vợ nhặt” của Kim Lân có nhiều giá trị về cả nội dung và nghệ thuật làm nên sự thành công của tác phẩm có đóng góp cho nền văn học dân tộc. Hai bát cháo mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc để lại ấn tượng độc đáo trong trong lòng độc giả. Gập lại trang sách nhưng ắt hẳn chúng ta không thể quên bát cháo hành tình người và bát cháo cám tình thương đầy suy ngẫm, trăn trở cho giá trị sống, giá trị làm người khi có mặt ở trên đời.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!