Tinh thần lạc quan của Bác trong Tức cảnh Pác Bó (6 mẫu) – Văn 8
TOP 6 bài Phân tích tinh thần lạc quan của Bác trong bài Tức cảnh Pác Bó sẽ giúp các em học sinh lớp 8 thấy rõ phong thái ung dung, tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác Hồ kính yêu.
Cho dù điều kiện sinh hoạt vô cùng hạn chế, khó khăn nhưng Bác vẫn làm việc với tinh thần hăng say, luôn lạc quan, mỉm cười. Tức cảnh Pác Bó là bài thơ giản dị, pha lẫn giọng vui đùa, hóm hỉnh đã tiếp thêm sức mạnh cho biết bao thế hệ. Mời các em cùng tải miễn phí để ngày càng học tốt môn Văn 8:
Dàn ý Phân tích tinh thần lạc quan của Bác trong Tức cảnh Pác Bó
Dàn ý 1
A. Mở bài
– Giới thiệu tác giả: Hồ Chí Minh
- Là nhà lãnh tụ vĩ đại của dân tộc
- Là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
– Giới thiệu tác phẩm: Tức cảnh Pác Bó
- Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh.
- Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc.
– Giới thiệu khái quát về nhận định trên
B. Thân bài
1. Bài thơ Tức Cảnh Pác Bó cho ta thấy tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác Hồ trong cuộc sống cách mạng ở Pác Bó đầy gian khổ
– Tháng 6 – 1940, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lúc này, Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh ( Vân Nam, Trung Quốc ). Tháng 2 năm 1941, Bác về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Trời rét, sức khoẻ yếu nhưng Bác phải ở trong cái hang nhỏ ẩm ướt, tối tăm. Ăn uống hết sức kham khổ, thức ăn hằng ngày phần lớn là cháo bột ngô và măng rừng. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá ven suối. Nhưng thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng. Bác vẫn ung dung, lạc quan, dành trọn tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng nên quên hết mọi gian nan, một mực phấn chấn, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
– Không những thế, ở câu thơ cuối cùng “Cuộc đời cách mạng thật là sang”, ta bắt gặp tinh thần của bài thơ. Đây cũng chính là niềm tin, niềm tự hào của Bác toả sáng cả bài thơ. Chính sự ra vào ung dung, tinh thần vẫn sẵn sàng, khí tiết, cốt cách vững vàng trong tình thế chông chênh đã làm nên cái sang, cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ phấn đấu hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức trên toàn thế giới.
2. Bài thơ Tức Cảnh Pác Bó cho ta thấy người làm cách mạng cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên là một niềm vui lớn.
– Cái gian khổ của hoàn cảnh sống sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập … tất cả đều như lặng chìm, tan biến trước sự hòa hợp giữa Bác và thiên nhiên: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. Bữa cơm đơn sơ, đạm bạc, quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng dang, măng nứa, rau rừng … hết ngày này sang ngày khác. Mặt khác, cháo bẹ, rau măng còn gợi nhớ tới cảnh sống an bần lạc đạo của người xưa:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Xưa là ước lệ tượng trưng nay hoàn toàn là sự thật. Chỉ phớt qua một chút xưa là câu thơ đậm đà thêm ý vị. Nhưng ý vị nhất vẫn là giọng điệu thơ. Cháo bẹ, rau măng là nhịp điệu an nhiên, khoan hoà bên trong.
– Chưa dừng lại ở đó, “chông chênh” vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn. Chiếc bàn đá của Bác quả là chông chênh thật vì nó chỉ là một phiến đá. Đó là thứ bàn làm việc bất đắc dĩ. Nhưng hàm ý của từ chông chênh không nhằm nói tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện cách tận dụng những gì mà thiên nhiên ban tặng cho đời sống của con người. Bác đã sử dụng những viên đá ấy thành bàn làm việc. Điều đó càng khẳng định Người và thiên nhiên như hòa vào làm một.
C. Kết bài
- Khẳng định giá trị của bài thơ
- Tình cảm của em dành cho bài thơ trên
Dàn ý 2
1. Mở bài
- Thơ Hồ Chí Minh luôn thấm đẫm tinh thần lạc quan, ung dung tự tại của Người dù cuộc đời cách mạng nhiều nguy nan gian khổ.
- Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” đã thể hiện rõ điều đó.
2. Thân bài
* Cảnh sống và làm việc của Hồ Chí Minh ở núi rừng biên giới:
– Sau khi từ nước ngoài về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng, Hồ Chí Minh phải sống trong một điều kiện hết sức gian khổ:
– Sáng ra bờ suối tối vào hang: câu thơ mang tiểu đối, nhịp điệu 4/3 khắc họa cuộc sống gian khổ: ở trong hang, làm việc bên bờ suối ⇒ Nhân vật trữ tình xuất hiện với phong thái ung dung, nhàn hạ, không thấy cảm giác của sự gian khổ.
- Cuộc sống như hòa mình giữa thiên nhiên rừng núi.
- Thức ăn: cháo bẹ rau măng ⇒ Ăn uống kham khổ nhưng “vẫn sẵn sàng” ⇒Thể hiện tinh thần vượt gian khổ, coi thường khó khăn.
– Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng:
- Khắc họa sự thiếu thốn, phải làm việc bằng cách viết kê trên đá.
- Từ chông chênh vừa thể hiện sự cập kênh, thiếu vững chãi của chiếc bàn đá vừa cho thấy cái nhìn thơ mộng hóa hiện thực của Hồ Chí Minh.
- Với điều kiện vật chất thiếu thốn cùng cực vậy mà Người vẫn làm được một công việc lớn lao đó là “dịch sử Đảng”.
– Cuộc đời cách mạng thật là sang:
- Cảm hứng vút lên từ câu thơ cuối, đó là cái nhìn cuộc sống gian khổ bằng con mắt coi thường.
- Biểu hiện cảm giác thoải mái và vui thích của Hồ Chí Minh trước cảnh sống hòa cùng với thiên nhiên như một tao nhân mặc khách.
– So sánh với thú lâm tuyền của Nguyễn Trãi:
- Nguyễn Trãi hòa mình vào thiên nhiên để xa rời vòng danh lợi, để làm thơ và hưởng thụ thanh nhàn.
- Hồ Chí Minh tuy sống hòa cùng thiên nhiên những tâm hồn lộng gió thời đại, luôn gắn bó cùng cách mạng lớn lao của dân tộc.
⇒ Nguyễn Trãi có niềm vui thú được sống với rừng suối của một tao nhân mặc khách thực thụ còn Hồ Chí Minh cũng có niềm yêu thích ấy nhưng điều đó còn thể hiện tinh thần lạc quan, phong thái ung dung tự tại coi thường khó khăn gian khổ của một người chiến sĩ cách mạng.
3. Kết bài
- Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ tứ tuyệt bình dị với giọng điệu vui đùa.
- Nó thể hiện tinh thần lạc quan và phong thái ung dung của Hồ Chí Minh trong cuộc sống cách mạng còn nhiều gian khổ.
- Cuộc đời hoạt động cách mạng trong sự hòa hợp với nhiên nhiên là một niềm vui lớn của Bác Hồ.
Phân tích tinh thần lạc quan của Bác – Mẫu 1
Hồ Chí Minh là nhà lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc. Nhận xét về bài thơ, có nhận định cho rằng “Bài thơ Tức Cảnh Pác Bó cho ta thấy tinh thần lạc quan phong thái ung dung của Bác Hồ trong cuộc sống cách mạng ở Pác Bó đầy gian khổ với người làm cách mạng cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên là một niềm vui lớn”.
Thật vậy, ý kiến trên là hoàn toàn đúng. Trước hết, bài thơ “Tức Cảnh Pác Bó” cho ta thấy tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác Hồ trong cuộc sống cách mạng ở Pác Bó đầy gian khổ:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang,Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.Bàn đá chông chênh, dịch sử ĐảngCuộc đời cách mạng thật là sang.
Tháng 6 – 1940, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lúc này, Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc). Tháng 2 năm 1941, Bác về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Trời rét, sức khoẻ yếu nhưng Bác phải ở trong cái hang nhỏ ẩm ướt, tối tăm. Ăn uống hết sức kham khổ, thức ăn hằng ngày phần lớn là cháo bột ngô và măng rừng. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá ven suối. Nhưng thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng. Bác vẫn ung dung, lạc quan, dành trọn tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng nên quên hết mọi gian nan, một mực phấn chấn, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước. Ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Nếu như câu thứ nhất nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn thì câu thứ ba nói về phương tiện làm việc. Trong hiện thực gian khổ, khó khăn, tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng, lạc quan, ung dung và tự tại.
Không những thế, ở câu thơ cuối cùng “Cuộc đời cách mạng thật là sang”, ta bắt gặp tinh thần của bài thơ. Đây cũng chính là niềm tin, niềm tự hào của Bác toả sáng cả bài thơ. Chính sự ra vào ung dung, tinh thần vẫn sẵn sàng, khí tiết, cốt cách vững vàng trong tình thế chông chênh đã làm nên cái sang, cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ phấn đấu hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức trên toàn thế giới.
Hơn hết, bài thơ “Tức Cảnh Pác Bó” cho ta thấy người làm cách mạng cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên là một niềm vui lớn.
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”
Cái hang Bác ở có tên là hang Cốc Bó, chỉ khoảng hơn một mét vuông dưới đáy là tương đối bằng phẳng, đủ kê một tấm ván thay cho giường. Vách hang chỗ lồi cao, chỗ lõm sâu, không khí lạnh lẽo, ẩm thấp. Bàn làm việc của Bác là phiến đá kê trên hai hòn đá và một hòn đá thấp hơn làm ghế cũng ở gần bờ suối. Không gian sinh hoạt của Bác chia làm hai phần: một là hang, hai là suối. Hành động cũng chia hai: ra suối, vào hang. Thời gian biểu hằng ngày đều đặn: sáng ra, tối vào. Vẫn là nhịp 4/3 hay 2/2/1/2 của câu thơ Đường luật bảy chữ, nhưng lồng vào trong đó là cái đều đặn, khoan thai như nhịp tuần hoàn của trời đất.
Cái gian khổ của hoàn cảnh sống sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập … tất cả đều như lặng chìm, tan biến trước sự hòa hợp giữa Bác và thiên nhiên: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. Bữa cơm đơn sơ, đạm bạc, quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng giang, măng nứa, rau rừng … hết ngày này sang ngày khác. Mặt khác, cháo bẹ, rau măng còn gợi nhớ tới cảnh sống an bần lạc đạo của người xưa:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Xưa là ước lệ tượng trưng nay hoàn toàn là sự thật. Chỉ phớt qua một chút xưa là câu thơ đậm đà thêm ý vị. Nhưng ý vị nhất vẫn là giọng điệu thơ. Cháo bẹ , rau măng là nhịp điệu an nhiên, khoan hoà bên trong.
Chưa dừng lại ở đó, “chông chênh” vốn nghĩa là không vững , không có chỗ dựa chắc chắn. Chiếc bàn đá của Bác quả là chông chênh thật vì nó chỉ là một phiến đá. Đó là thứ bàn làm việc bất đắc dĩ. Nhưng hàm ý của từ chông chênh không nhằm nói tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện cách tận dụng những gì mà thiên nhiên ban tặng cho đời sống của con người. Bác đã sử dụng những viên đá ấy thành bàn làm việc. Điều đó càng khẳng định Người và thiên nhiên như hòa vào làm một.
Bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đã giúp chúng ta hiểu thêm về một quãng đời hoạt động của Bác Hồ. Vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, Bác vẫn sống ung dung, thanh thản và tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó, bài thơ còn là bài học thấm thía về thái độ sống và quan điểm sống đúng đắn, tích cực của một chiến sĩ cộng sản chân chính.
Phân tích tinh thần lạc quan của Bác – Mẫu 2
Nhắc đến Bác Hồ là nhắc đến người lãnh đạo thiên tài của Cách mạng Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Nhưng nhắc đến Bác, còn là nhắc đến một lối sống thanh bạch, khiêm nhường, suốt đời chỉ chăm lo đến sự nghiệp cách mạng của đất nước. Điều đó được thể hiện rất rõ qua bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”:
“Sáng ra bờ suối tối vào hangCháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàngBàn đá chông chênh dịch sử ĐảngCuộc đời cách mạng thật là sang”.
Sau bao nhiêu năm bôn ba tìm đường cứu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Là một nhân vật lịch sử lỗi lạc của dân tộc, là nhà thơ, nhà danh nhân văn hóa. Cuộc đời thơ ca của Bác luôn song hành với cuộc đời chính trị. Trong những năm gian khổ ở cuộc kháng chiến trống Pháp, làm việc trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn, ở hang Pác Pó, bàn làm việc chông chênh bên suối Lê – Nin. Bác đã viết những bài thơ ngấm vào máu thịt của người dân Việt Nam. Bài thơ Tức cảnh Pác Pó đã diễn tả được phong thái ung dung ,tinh thần lạc quan yêu đời, “thú lâm tuyền” khoáng đạt, tươi sáng của Bác.
Bài thơ đã đồng hành cùng thời gian, vượt qua hành trình hơn 70 mùa xuân. Giờ đây bài thơ như một chứng tích lịch sử của cách mạng Việt Nam. Qua đó, còn cho chúng ta thấy phong thái ung dung tự tại, tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh về những năm tháng hoạt động bí mật, đầy gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong ba câu đầu của bài thơ, Bác nhắc đến điều kiện ở – ăn – làm việc của mình, ở và ăn là hai nhu cầu tất yếu của con người. Và riêng với Hồ Chí Minh, khi nói đến đời sống sinh hoạt của mình, Người luôn đề cập thêm vấn đề công việc. Ấy bởi Bác là người luôn luôn làm việc, suốt đời làm việc, suốt đời lo cho dân, cho nước. Với Hồ Chí Minh, làm việc như một nhu cầu tất yếu, một bản năng. Điều đó cho thấy tấm lòng dành cho dân, cho nước của Bác vĩ đại nhường nào!
Nơi thâm sơn cùng cốc ấy, Người ở – ăn – làm việc như thế nào? “Sáng ra bờ suối tối vào hang”, câu thơ cho biết không gian sống của Bác là không gian núi rừng hoang sơ, dân dã: suối, hang. Không phải là tòa biệt thự đồ sộ, không phải là giường ấm, đệm êm dù Bác đang là một yếu nhân của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, gian lao của đất nước, Người sẵn sàng sẻ chia thiếu thốn. Câu thơ có sự đối xứng nhịp nhàng: “sáng” – “tối”, “suối” – “hang”, “ra” – “vào”. Không gian và thời gian khép lại câu thơ đầy bóng tối: “tối”, “vào”, “hang”. Điều đó đã nhấn mạnh những gian khổ trong điều kiện ở của Bác. Chẳng những vậy, điều kiện ăn uống của Bác cũng rất hạn chế: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. “Cháo bẹ” là cháo ngô, loại thức ăn đạm bạc thường ngày của đồng bào dân tộc Việt Bắc. “Rau măng” cũng vậy. Nhà thơ Phạm Tiến Duật từng viết “Hết rau rồi em có lấy măng không?”, nghĩa là măng còn đạm bạc hơn cả rau rừng (vốn đã bị coi là đạm bạc rồi!). Nhưng dẫu thiếu thốn, gian khổ đến vậy, Người “vẫn sẵn sàng” cho công việc cách mạng, phục vụ cho lợi ích của nước, của dân.
Và điều kiện làm việc của Người cũng không tránh khỏi những thiếu thốn “bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”. Từ “chông chênh” là từ láy chỉ tư thế không vững chãi, ở vị trí bấp bênh. Hình ảnh “bàn đá chông chênh” vừa gợi sự gian khổ của điều kiện làm việc vừa gợi tình thế gian nan của sự nghiệp cách mạng nước nhà. Hình ảnh Bác Hồ đăm chiêu làm việc bên một “bàn đá chông chênh” gợi bao niềm cảm động trong lòng độc giả. Nhưng Bác không để cảm hứng bài thơ xuôi theo cảm xúc ủy mị, yếu ớt của sự thiếu thốn, gian khổ. Câu thơ hợp của bài tứ tuyệt thật độc đáo:
“Cuộc đời cách mạng thật là sang!”
“Cuộc đời cách mạng” chính là cuộc sống với cái ở, cái ăn và sự làm việc như ba câu thơ trên. Bác dùng từ “thật là” mượn của khẩu ngữ rất tự nhiên, nó thể hiện sự cảm thán của người viết. Và chữ kết lại bài thơ thật bất ngờ: “thật là sang!”. Chữ “sang” mang ý nghĩa là sang trọng, đầy đủ. Chữ “sang” làm bật lên tiếng cười vui vẻ, niềm lạc quan trước cuộc sống gian khổ, thiếu thốn. Chính tinh thần ấy đã trở thành động lực để Bác cùng những người đồng chí vượt qua sự ngặt nghèo của đời sống và tình thế cách mạng để làm việc và chiến đấu. Chỉ một chữ mà khắc họa chân dung tinh thần của một con người. Chữ “sang” xứng đáng là “nhãn tự” của bài thơ tứ tuyệt “Tức cảnh Pác Bó”.
“Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần lạc quan của Bác Hồ trong những năm tháng khó khăn của đời sống cách mạng. Dù những điều kiện sinh hoạt vô cùng hạn chế song bằng tinh thần làm việc hăng say và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của dân lộc, Bác vẫn lạc quan mỉm cười để lấy đó làm động lực hoạt động. Bài thơ sử dụng một thể thơ cổ (thất ngôn tứ tuyệt) song ngôn ngữ rất giản dị, gần gũi, thậm chí có cả khẩu ngữ. Điều đó thể hiện tinh thần dân tộc trong ngòi bút thơ ca Hồ Chí Minh. Bài thơ cũng rất tinh tế trong việc lựa chọn trật tự từ, sử dụng từ ngữ… điều đó góp phần không nhỏ trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm.
Phân tích tinh thần lạc quan của Bác – Mẫu 3
Một con người dù “bị trói chân tay” vẫn cảm nhận được “chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng” chắc chắn phải có tâm hồn nhạy cảm và phong phú trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Chỉ có điều, ở bài thơ Tức cảnh Pác Bó, yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng đã được Bác đặt cao hơn mà thôi.
Câu thơ thứ nhất có một số người muốn sửa lại thành “Tối ra bờ suối, sáng vào hang”. Họ cho rằng viết như thế mới phù hợp với tình hình bí mật của cách mạng lúc bấy giờ. Nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Thơ ca đòi hỏi phải bắt rễ sâu vào đời sống song không có nghĩa là sao chép lại y nguyên thực tế ấy. Nếu đảo lại vị trí của hai từ chỉ thời gian, câu thơ sẽ chỉ dừng lại ở mức độ làm tư liệu lịch sử. Chính cái hành động “tối vào hang”, “sáng ra bờ suối” mới thể hiện được đặc trưng luôn hướng ra ánh sáng, sự sống, tương lai của hình tượng thơ Bác. Đó chẳng phải là niềm tin, là tinh thần lạc quan cách mạng hay sao?
Nếu câu thơ đầu có tính chất nêu sự việc một cách khái quát thì câu thứ hai lại đi vào chi tiết cụ thể: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. Hình ảnh thơ cứ gợi ta nhớ về cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của Bạch Vân cư sĩ thuở xưa: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá / Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. Ở những câu thơ mở đầu của Tức cảnh Pác Bó, Hồ Chí Minh đã diễn tả một cách tự nhiên cuộc sống của mình ở hang Pác Bó. Sự thiếu thốn đó là lẽ thường và cũng là một sự thật ở nơi núi rừng. Giữa khung cảnh trời đất có núi non, suối nguồn, bàn thạch, người xưa thường uống rượu, múa vài ba đường kiếm hay san thi, định kinh còn Hồ Chí Minh thì “dịch sử Đảng” – công việc quan trọng có ảnh hưởng quyết định đối với phong trào cách mạng nước ta.
Thực chất việc “dịch” của Bác là tìm tòi, sáng tạo để tìm ra con đường riêng cho cách mạng Việt Nam và nối kết cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Và vì thế, tuy đời sống vật chất đầy khó khăn, thiếu thốn nhưng với Người: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Câu thơ ngụ một nét cười hóm hỉnh đầy lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.
Tức cảnh Pác Bó là bài thơ giản dị pha lẫn giọng vui đùa, hóm hỉnh. Qua bài thơ, ta thấy được tư thế ung dung của Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh cuộc sống cách mạng nhiều khó khăn gian khổ. Mặt khác, bài thơ cũng cho thấy sự gắn bó sâu sắc giữa tâm hồn nhà thơ với thiên nhiên, quê hương, đất nước.
Phân tích tinh thần lạc quan của Bác – Mẫu 4
Sau bao nhiêu năm bôn ba tìm đường cứu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Là một nhân vật lịch sử lỗi lạc của dân tộc, là nhà thơ, nhà danh nhân văn hóa. Cuộc đời thơ ca của Bác luôn song hành với cuộc đời chính trị. Trong những năm gian khổ ở cuộc kháng chiến chống Pháp, làm việc trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn, ở hang Pác Bó, bàn làm việc chông chênh bên suối Lê – Nin. Bác đã viết những bài thơ ngấm vào máu thịt của người dân Việt Nam. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã diễn tả được phong thái ung dung, tinh thần lạc quan yêu đời, “thú lâm tuyền” khoáng đạt, tươi sáng của Bác.
Bài thơ đã đồng hành cùng thời gian, vượt qua hành trình hơn 70 mùa xuân. Giờ đây bài thơ như một chứng tích lịch sử của cách mạng Việt Nam. Qua đó, còn cho chúng ta thấy phong thái ung dung tự tại, tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh về những năm tháng hoạt động bí mật, đầy gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong cuộc sống đầy gian khổ ấy, tinh thần là một thứ vô cùng quan trọng. Thú lâm tuyền là cách chơi vui thú, tao nhã của Bác trong rừng xanh núi đỏ, lâm tuyền là rừng núi và khe suối nước chảy, thú vui của Bác là yêu thiên nhiên, yêu rừng Pác Bó, cỏ cây hoa lá chim muông và cả cái tiếng nước róc rách dưới khe cũng nên thơ hữu tình trong thơ tức cảnh của Người.
“Sáng ra bờ suối, tối vào hangCháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”
Ngay ở những câu thơ đầu Bác đã mở ra trước mắt người đọc một nếp sống sinh hoạt rất đều đặn, nhịp nhàng nhưng một đặc điểm là tất cả đều gắn liền với thiên nhiên. Chúng ta đã thấy được một bức tranh thiên nhiên sinh động cuộc sống thường ngày của Bác ở nơi núi rừng thiếu thốn trăm bề, Bác chỉ ăn những thứ sẵn có của núi rừng: cháo bẹ, rau măng. Dù khó khăn là vậy nhưng Bác vẫn luôn hài lòng, chấp nhận, sẵn sàng vượt lên khó khăn trắc trở. Khó khăn gian khổ tới đâu cũng không bao giờ có thể làm nhụt đi tinh thần ý chí của Bác cũng như của cả dân tộc ta.
Những vần thơ mộc mạc, nhẹ nhàng ấy, luôn nằm trong những vần thơ của Bác. Bác cho chúng ta thấy vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng. Bên bờ suối Lê-nin nước chảy róc rách, cạnh đó là chiếc bàn đá và quyển sách, hình ảnh Bác Hồ hiện lên như một yếu tố quan trọng đưa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy từ tĩnh sang động. “Thú lâm tuyền” của Bác được thể hiện rõ nhất ở câu này. Dù hoàn cảnh ở thực tại có khó khăn trắc trở nhưng dường như không thể cản được việc lớn của Bác, từ đó ta càng thấy rõ hơn tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tình yêu thiên nhiên luôn tiềm tàng trong con người của Bác.
Câu thơ cuối như một lời tự nhận xét của Bác về cuộc đời cách mạng của mình. Câu thơ gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Làm cách mạng có gian truân, khổ cực nhưng đối với Bác nó lại thật là sang. Sang của Bác ở đây không nói về vật chất chỗ ăn chỗ ở, làm việc mà cái Bác muốn nói đến là sang về mặt tinh thần. Được hoạt động cách mạng để cứu nước là niềm vui lớn với Bác, niềm vui không thể mua được. Những tinh thần ấy có được, là nhờ lòng yêu nước thương dân nồng nàn của Bác, mong mỏi cuộc sống yên bình, ấm no hạnh phúc cho con dân cả nước.
Bài thơ với cách viết hóm hỉnh, nghệ thuật đối từ bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã cho chúng ta thấy được thú lâm tuyền của Bác thật khoáng đạt, đó là tinh thần lạc quan, tình yêu nước sâu nặng và sự căm thù giặc, tất cả đều chứa đựng trong người Bác. Bác vĩ đại, về tất cả mọi mặt.
Phân tích tinh thần lạc quan của Bác – Mẫu 5
Hồ Chí Minh là vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Sau ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Người đã trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Hoài bão cứu nước đã làm cho Người luôn nghĩ về đất nước: Đêm mơ ước thấy hình của nước (Chế Lan Viên). Đất nước Việt Nam luôn in đậm trong trái tim người. Tình yêu đất nước nồng nàn đã làm Bác quên đi sự gian khổ tột cùng trong bước đường hoạt động cứu nước, cứu dân. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã cho thấy cuộc sống đầy gian khổ của Bác trong thời kì ở hang Pác Bó nhưng cũng thể hiện tâm trạng thoải mái, lạc quan của Người khi được sống giữa thiên nhiên. Tuy thiếu thốn về vật chất nhưng Bác vẫn tràn đầy tình yêu thiên nhiên và lòng lạc quan tin tưởng. Bác tự hào về cuộc sống đầy ý nghĩa của người cách mạng.
Mở đầu bài thơ là phong cảnh núi rừng, là nơi hoạt động của người cộng sản:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Câu thơ có hai vế sóng đôi đã làm toát lên một cuộc sống nhịp nhàng, nề nếp của con người: sáng ra, tối vào. Nơi vào lại là hang trong núi, một nơi ở sao mà chật chội lạ lùng. Cuộc sống trong hang đá khó khăn, gian khổ biết nhường nào, thế nhưng ta luôn bắt gặp một tâm hồn khoáng đạt, đa cảm. Bác Hồ sống thật ung dung nơi núi rừng đầy gian khổ ấy. Sự ung dung của Bác đã thể hiện rõ trong cuộc sống vật chất đạm bạc, thiếu thốn:
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bác đã thích nghi với cuộc sống thiếu thốn một cách tự nhiên, Bác không mảy may cảm thấy mình vất vả mà ngược lại Bác cảm thấy rất vui. Có lẽ vui nhất vì sau bao nhiêu năm xa đất nước nay được trở về sống với đất nước thân yêu. Bác tin rằng, thời cơ giành độc lập hoàn toàn đang tới.
Niềm vui ấy đã làm cho Bác say mê làm việc, say mê trong bước đường hoạt động và lãnh đạo kháng chiến.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng.
Đây là hình tượng trung tâm của bài thơ. Cuộc sống giữa núi rừng thật gian khổ, vất vả, thiếu thốn. Nơi làm việc cũng không lấy gì thoải mái vì bàn đá chông chênh, nhưng dáng điệu của Bác vẫn lồng lộng đường hoàng. Bác say mê với công việc, tập trung cao độ vào công việc mà chẳng hề quan tâm đến vật chất quanh mình. Từ láy chông chênh chỉ sự tạm bợ, nghèo về vật chất. Sống giữa thiên nhiên, làm việc giữa đất trời khoáng đạt, Bác cảm thấy vui và hăng say với công việc của mình. Trên cái bàn đá “thiên tạo” ấy, Bác vẫn miệt mài dịch sử Đảng, tìm ra đường lối để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trong những ngày tháng ở núi rừng Việt Bắc, ở hang Pác Bó, cuộc sống thật kham khổ về vật chất nhưng qua giọng điệu, từ ngữ, hình ảnh thơ và cách nói của Người, ta thấy toát ra niềm vui lớn lao của Bác. Câu kết bài thơ là lời nhận định tổng quát của Bác:
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Bác tự hào về cuộc đời cách mạng, nó sang trọng, cao quí. Chữ sang ở cuối bài thơ đã tỏa sáng tinh thần của toàn bài thơ. Sang ở đây không phải là vật chất sang trọng, giàu sang phú quý mà đây là cái thoải mái tinh thần, cuộc sống đầy ý nghĩa của người cách mạng. Với Bác, cứu dân, cứu nước là niềm vui, là lẽ sống, là lí tưởng của mình. Hơn nữa, dường như ở Bác luôn sẵn có, cái thú lâm truyền: Bác thích sống ở núi rừng, được sống hòa hợp cùng thiên nhiên, cây cỏ. Tuy nhiên, cái vui thú của Bác không phải là được làm một ẩn sĩ mà là một chiến sĩ, suốt đời chiến đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng dân tộc. Rõ ràng ở Bác có những nét đẹp của phong cách cổ điển đan xen với nét đẹp của phong cách hiện đại. Vẻ đẹp này đã thể hiện trong phong cách thơ của Bác.
Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ tứ tuyệt rất giản dị nhưng rất hàm súc, ý nghĩa thật sâu xa. Lời thơ pha giọng vui đùa cho ta thấy tinh thần lạc quan, phong thái ung dung cả Bác Hồ trong cuộc sống đầy gian khổ ở núi rừng Việt Bắc. Tinh thần ấy đã giúp Bác vượt qua mọi khó khăn gian khổ để lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi vẻ vang.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Bác trong Tức cảnh Pác Bó
Bác Hồ sáng tác bài thơ Tức cảnh Pác Bó khi người sống và làm việc tại hang Pác Bó ở tỉnh Cao Bằng trong thời gian đầu mới trở về nước xây dựng lực lượng cách mạng. Bài thơ diễn tả niềm vui thú chân thực của nhà thơ trong những ngày gian khổ ở Pác Bó. Qua đó làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Bác: vừa là một chiến sĩ say mê cách mạng vừa như một ẩn sĩ ung dung, tự tại, sống hòa mình với thiên nhiên rộng lớn.
Sáng ra bờ suối, tối vào hang,Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Đó là niềm vui sống toát lên phong thái ung dung, tự tại giữa núi rừng. Câu thơ đầu có giọng điệu thật thoải mái, thanh thản hòa nhập với nhịp điệu của thời gian: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”.
Câu thơ là hai vế sóng đôi, thể hiện nếp sống nhịp nhàng, nề nếp bất chấp hoàn cảnh gian khó thể nào. Ở đó, Bác có lối sống của một ẩn sĩ thanh tao, lấy núi, mây, chim, cảnh làm bầu bạn. Thế nhưng, như Phạm Văn Đồng đã từng nói đó không phải cách sống của một vị hiền triết yếm thế, dù ở nơi giản dị nhưng tâm hồn của Người luôn lộng gió thời đại.
Nếu câu một miêu tả nơi ở, thì đến câu thứ hai lại miêu tả cuộc sống sinh hoạt có pha giọng đùa vui:
“Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”
Tuy gian khổ, nhưng lúc nào, Bác cũng nhìn cuộc sống với niềm tin tưởng lớn. Lương thực, thực phẩm được rừng núi ban tặng đầy đủ đến mức dư thừa (vẫn sẵn sàng: lúc nào cũng sẵn có). Rõ ràng niềm vui thích “thú lâm tuyền” đã khiến nhà thơ biến thiếu thốn thành dư thừa, biến kham khổ thành sang trọng.
Niềm lạc quan toát lên cái “sang” của cuộc đời cách mạng. Câu thơ thứ ba cũng chẳng có gì cầu kì, đó hoàn toàn tả thực:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
Núi rừng cho Bác rau măng để ăn, lại sẵn có cho Người nào bàn, nào ghế đá làm việc. Nhưng câu thơ cũng lại rất “sang”, nó làm nổi bật lên hình tượng người lãnh tụ cách mạng. Người dịch sử Đảng để giảng dạy, đào tạo cán bộ cách mạng cho phong trào. “Bàn đá chông chênh”, ba thanh bằng nhẹ nhõm, đối sánh với dịch sử Đảng toàn thanh trắc làm nên giọng thơ khỏe chắc, gân guốc: cái bàn chông chênh nhưng lại chắc chắn.
Câu thơ vừa thực vừa lớn lao và cổ kính như tứ tuyệt cổ điển. Thơ tứ tuyệt của Bác thường khắc họa nhân vật trữ tình: đó là nhà thơ. Ở câu thơ thứ ba, để tạo đà chuyển sang câu kết trực tiếp bộc lộ cảm xúc. Đó là một kết cấu hợp lí.
“Cuộc đời cách mạng thật là sang.”
Chỉ một chữ “sang’’ được nhấn mạnh bởi từ cảm thán “thật là” đối lập với con suối, cái hang, cháo bẹ, rau măng, bàn đá chông chênh, tác giả làm tăng sự khẳng định dứt khoát cuộc sống này hơn hẳn các cuộc sống khác trên đời. Bởi vì đó là cuộc đời cách mạng, là niềm vui vô hạn của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại sau ba mươi năm xa. nước nay được sống giữa lòng đất nước yêu dấu; là niềm vui lớn lao khi Người biết thời cơ cứu nước đã tới gần.
Như vậy “thú lâm tuyền” của Bác vừa giống vừa khác các ẩn sỉ: cùng vui với rừng với suối, cũng sống thanh bần, nhưng không hề quay lưng với đời mà sống giữa đời để làm thay đổi cuộc đời. Nhân vật trữ tình tuy có dáng dấp ẩn sĩ nhưng vẫn là người chiến sĩ kiên trung. Chữ “sang’’ ấy chính là “nhãn tự” đã kết tinh và tỏa sáng toàn bài.
Tức cảnh Pác Bó là bài thơ tứ tuyệt vừa cổ điển (thú lâm tuyền tiêu dao của ẩn sĩ) vừa hiện đại (niềm lạc quan của chiến sĩ). Giọng thơ hóm hỉnh, hình ảnh hàm súc, diễn tả sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh: dù trong bất kỳ gian nan nguy hiểm nào vẫn ung dung. Bởi với Người, làm cách mạng và sống hòa nhập với thiên nhiên là một niềm vui lớn.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!