Phân tích tác phẩm Người Lái Đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
Tiếp theo, xin giới thiệu đến các em lớp 12 bài hướng dẫn phân tích truyện ngắn Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân. Đây cũng là 1 bài văn thường xuất hiện trong đề thi THPT Quốc Gia các năm.
PHÂN TÍCH TÁC PHẨMNGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN
Phần I. Hướng dẫn viết mở bài tác phẩm Người lái đò Sông Đà
I. Tìm hiểu chung tác phẩm Người lái đò Sông Đà
-
1. Tác giả Nguyễn Tuân
– Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn lớn nổi tiếng nhất của Việt Nam thế kỉ XX. Ông là nghệ sĩ tài hoa, độc đáo, giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
– Nguyễn Tuân đặc biệt thành công ở thể loại truyện ngắn và tùy bút với phong cách tài hoa, uyên bác, từ ngữ phong phú, câu văn tạo hình, gợi cảm giác, liên tưởng độc đáo, nhạc điệu trầm bổng, làm lay động lòng người.
– Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời, Tình chiến dịch, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi…
-
2. Hoàn cảnh sáng tác Người Lái Đò Sông Đà
– “Người lái đò Sông Đà” là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong 15 bài tùy bút in trong tập Sông Đà (1960) – tập tùy bút cho thấy diện mạo của một Nguyễn Tuân đã căn bản đổi thay, để trở thành nhà văn mới trong thời đại mới.
*/ Chủ đề:
Qua hình ảnh con Sông Đà hung bạo và thơ mộng, người lái đò giản dị mà anh dũng, tài hoa Nguyễn Tuân ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người vùng Tây Bắc của Tổ quốc.
-
3. Sơ đồ tư duy bài Người lái đò Sông Đà
Xem thêm: Dạy Văn tại nhà
Phần II. Hướng dẫn viết thân bài phân tích tác phẩm Người lái đò Sông Đà
II. Tìm hiểu văn bản
-
1. Hình tượng Sông Đà
Dòng Sông Đà được Nguyễn Tuân hình dung như một con người với hai đặc tính trái ngược, mâu thuẫn mà thống nhất: Hung bạo, nguy hiểm và Thơ mộng, trữ tình. Cả hai đặc tính này đều rất mạnh, rất đậm.
- a. Tính hung bạo
– Tính chất hung bạo, dữ dội của Sông Đà trước hết là ở hướng chảy độc đáo, ngang ngược:
“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”
(Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông – chỉ có Sông Đà chảy theo hướng bắc)
– Địa hình Sông Đà hiểm trở lắm thác nhiều ghềnh, nước thác dữ dội:
+ “Đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”
+ “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” gây khó khăn cho con người đi lại trên sông.
– Nước thác Sông Đà thật ghê gớm:
+ “quãng mặt ghềnh Hát Lóong, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà tóm được qua đấy”
+ “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”.
+ Những cái hút nước mới đáng sợ: “Có những thuyền đã bị cái hút nước hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”
+ “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khí giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vẩu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…. “.
– Đá trên Sông Đà qua cảm nhận và tưởng tượng của Nguyễn Tuân thật sinh động:
+ “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông…, mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện…là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
+ “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này.”
+ “Đảm tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền…”.
+ Tác giả tưởng tượng đá Sông Đà bày thành trận địa để đón đánh người lái đò. Chúng đánh bằng nhiều cách: “đánh giáp lá cà, đánh khuyp quật vu hồi, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đàn âm…”.
+ “…những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên trước khi giao chiến”.
-> Như một nhà bác học, nhà địa lí uyên bác, Nguyễn Tuân đã khảo cứu tường tận dòng Sông Đà. Ông làm rõ tính hung bạo của nó không chỉ bằng việc gọi từng cái trong hơn 70 con thác từ trên xuống mà còn vận dụng đủ các giác quan, dùng hình ảnh so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, tưởng tượng, dùng ngôn ngữ điện ảnh, quân sự, võ thuật để tả thác đá, ghềnh đá Sông Đà theo cấp độ tăng dần. Nguyễn Tuân đã khiến người đọc ngạc nhiên, thú vị và thán phục bởi kiến thức sâu rộng, khả năng diễn đạt chính xác sống động và độc đáo của mình.
- b. Tính thơ mộng, trữ tình
Vẻ thơ mộng trữ tình của Sông Đà được tác giả miêu tả ở nhiều góc độ, trong nhiều thời điểm nên dáng vẻ, màu sắc thật sinh động:
– Chọn góc nhìn bao quát từ trên cao, trên máy bay kết hợp so sánh, liên tưởng, tác giả đưa ra những nhận định xác đáng: nước Đà giang không hề đen, sắc nước thay đổi theo mùa “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”.
– Đứng ở góc độ lịch sử, văn chương, Sông Đà được nhìn trong không khí mơ màng, kì ảo:
+ “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khỏi núi Mèo đốt nương xuân”.
→ Câu văn giàu hình ảnh và cảm xúc cũng mang dáng dấp mềm mại, êm ả như chính dòng nước Sông Đà vậy.
+ Sông Đà thật gợi cảm, giống như một cố nhân lâu ngày gặp lại. Ở đấy “nắng” cũng “giòn tan” và hoe hoe vàng cái sắc Đường thi “Yên hoa tam nguyệt hạ Dương Châu”.
– Bờ bãi yên tĩnh, thơ mộng “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa… Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương… Đàn cá dầm xanh i quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi…”
-> Ta có cảm tưởng Nguyễn Tuân đang đề thơ lên núi rừng Tây Bắc, lên sóng nước Sông Đà. Một áng thơ văn xuôi tràn trề cảm xúc với tình yêu thiên nhiên đất nước thiết tha.
Tóm lại: Với kiến thức uyên thâm, kết hợp so sánh và tưởng tượng, liên hệ thơ phú kim cô một cách tự nhiên và phù hợp, Nguyễn Tuân đã để lại những trang tuyệt bút viết về Sông Đà.
-
2. Hình tượng người lái đò Sông Đà
- a. Vài nét về lai lịch, tính cách, tài nghệ của ông lái đò
– Ông lái đò ở Lai Châu làm nghề lái đò suốt 10 năm, đã thôi làm đò đôi chục năm, xuôi ngược trên Sông Đà hơn 100 lần.
– Gần 70 tuổi, tóc đã bạc nhưng “thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mun”, vẫn thích phiêu lưu mạo hiểm, rất giàu ý chí, kinh nghiệm vượt thác, lòng can đảm và thông minh tài trí trước sóng to gió cả.
– Đặc biệt tài nghệ lái đò của ông ít ai theo kịp. Ông am hiểu tường tận nghề lái đò, nhớ tỉ mỉ từng luồng nước, từng con thác hiểm trở với lũ đá ngỗ ngược bài binh bố trận đòi dìm chết thuyền ông. Theo Nguyễn Tuân “Sông Đà đối với ông lái đò ấy như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
- b. Hình tượng người lái đò trong trận thủy chiến với Sông Đà
*/ Về thế trận: Đây là cuộc chiến không cân sức. Một bên là Sông Đà – thiên nhiên lớn lao, dữ dội hiểm độc, một bên là con người nhỏ bé, không hề có phép màu, vũ khí chỉ là chiếc cán chèo trên con đò đơn độc hết chỗ lùi.
*/ Hình ảnh Sông Đà (lấy dẫn chứng ở phần 1.a):
– Nhà văn dùng âm thanh tiếng nước thác để miêu tả sự hung hãn của Sông Đà, báo trước những tai ương ghê gớm: Tiếng nước réo to mãi, oán trách, van xin, khiêu khích, chế nhạo, rống lên khủng khiếp như trâu rừng chạy lửa -> Nhà văn dùng lửa để tả nước thật độc đáo.
– Bằng tưởng tượng và nghệ thuật nhân hóa, so sánh, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những hòn đá vô tri vô giác. Ba vòng thạch trận dàn sẵn để chờ đợi phá thuyền, lật thuyền nhấn chìm người lái đò bộc lộ sự hung bạo của Sông Đà:
+ Vòng 1 là những cái hút nước nguy hiểm, những boong kẹ chìm và pháo đài đá nổi dàn trận, bốn cửa tử, một cửa sinh mà cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn.
+ Vòng 2 tăng thêm nhiều cửa tử và cửa sinh lại lệch qua phía bờ hữu ngạn.
+ Vòng 3, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
*/ Hình ảnh người lái đò
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, ông lái đò vừa có tư thế một anh hùng vừa có dáng vẻ một nghệ sĩ tài hoa:
– Với con thuyền mong manh đơn độc không thể lùi trong trận giáp lá cà không cân sức, ông lái đò vẫn bình tĩnh phóng thẳng vào thạch trận, ghì chặt mái chèo, đón nhận luồng sóng tấn công trực diện ác độc, mỗi lúc một mạnh, một nhiều: “Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Nhưng ông đò “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”. Không phút nghỉ tay, nghỉ mắt, ông đò “phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”.
– Nếu mỗi vòng vây, thác đá Sông Đà có một kiểu cạm bẫy tinh vi, gian hiểm, bất ngờ, bạo liệt khác nhau thì người lái đò lại tin vào tài trí của mình. Ông nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở và ông hiểu rằng “Cưỡi lên thác Sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Vì thế, mặc cho đá và nước thác Sông Đà tấn công, khiêu khích ống lái đò vẫn bình tĩnh “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bị chắc cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”, “đứa thì ông tránh…đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, làm cho lũ đá tướng đứng chiến ở cửa vào “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng” vì thua cái thuyền.
– Còn vòng vây thứ ba, ông đò phóng thăng thuyền vút qua ba cửa, “thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”, tự lái được, lượn được, thế là hết thác.
– Ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những con thác nên chuyện vượt thác Sông Đà đối với những người lái đò nơi đây trở nên bình thường, không có gì hồi hộp đáng nhớ. Sau khi chiến thắng dòng sông hung dữ “nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tản về cá anh vũ cả dầm xanh.”
=> Thật là ngoan cường, trí dũng song toàn. Ông lái đò là biểu tượng của con người lao động mới: cần cù, thông minh, dũng cảm, quyết đoán. Thế nhưng con người được ví với khối vàng mười quý báu ấy chỉ là một người lái đò nghèo khó, vật lộn với sông nước hiểm sống âm thầm, giản dị và vô danh. Chính nhờ cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên, con người nguy mỗi ngày, trở nên lớn lao, kì vĩ.
Tóm lại: “Người lái đò Sông Đà” là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý chí con người, ca ngợi lao động vinh quang đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa như thánh thần của dòng sông hung dữ.
Phần III. Hướng dẫn viết kết bài tác phẩm Người lái đò Sông Đà
III. Tổng kết:
- 1. Nội dung
– Vẻ đẹp đa dạng của con sông Đà hiện lên trong từng trang viết. Đó là vẻ đẹp của một con sông Đà hùng vĩ, hoang dại với vẻ “hung bạo” với những thành vách, hút nước, trùng vây thạch trận. Đó còn là vẻ đẹp của một con sông đã trữ tình, thơ mộng. Hai vẻ đẹp tưởng chừng đối lập lại tụ hội trong một con sông của quê hương Tây Bắc. Sự hài hòa trong cảnh vật thiên nhiên đã tạo nên vẻ đẹp của chính núi rừng và vùng đất Tây Bắc – nơi địa đầu của Tổ quốc
– Đằng sau vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ và thơ mông là hình tượng người lái đò sông Đà. Khi thiên nhiên đã được nâng lên đến mức thần thánh như thách thức con người thì ông lái đò chính là người chinh phục thiên nhiên thần thánh ấy. Hình tượng nhân vật ông lái hiện lên là một người anh hùng trên sông nước với kinh nghiệm dày dạn với tay lái ra hoa và đặc biệt ông lái còn là một con người đời thường, vô danh. Khác hẳn với những nhân vật trước cách mạng của Nguyễn Tuân, ông lái đò mang vẫn xuất hiện với tư cách là con người tài hoa, tài tử nhưng không còn là con người của quá khứ, đối lập với thực tại nữa mà ông lái là con người của hiện tại, đấu tranh với thiên nhiên, núi rừng để sinh tồn.
– Qua đó, ta cũng thấy được tình yêu, sự say đắm của Nguyễn Tuân trước thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc
- 2. Nghệ thuật
– Ngôn ngữ sống động, tổng hợp trên nhiều vốn tri thức, vốn văn hóa về nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống, từ hội họa, điển ảnh đến quân sự
– Nghệ thuật viết tùy bút bậc thầy khiến con sông đã hung bạo, độc hiểm cũng phải hiện hình rõ nét trên trang giấy của Nguyễn Tuân.
MỞ RỘNG: CÁC NỘI DUNG CÓ THỂ XEM THÊM
1. Hướng dẫn phân tích các bài Văn và Thơ cho kỳ thi THPT
1. 1 Các bài phân tích Văn
+ Hạnh phúc của một tang gia – Vũ Trọng Phụng
+ Chí Phèo của Nam Cao
+ Hai đứa trẻ của Thạch Lam
+ Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
+ Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
+ Ông già và biển cả của HÊ-MINH-UÊ
+ Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
+ Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
+ Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
+ Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
+ Phân tích bài Hồn Trương Ba, da hàng thị – Lưu Quang Vũ
+ Vợ Nhặt của Kim Lân
1. 2 Các bài phân tích Thơ
+ Phân tích bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng
+ Phân tích bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu
+ Phân tích bài thơ Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm
+ Phân tích bài thơ Sóng – Xuân Quỳnh
2. Kênh tuyển sinh THPT Quốc Gia
– Lịch thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia năm 2023
– Cách tính điểm thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia
– Khối C, tổ hợp của khối C, các ngành khối C, các trường ĐH có khối C
– Khối D, tổ hợp của khối D, các ngành khối D, các trường ĐH có khối D
– Đề thi minh họa môn Văn năm 2022
Gia Sư Thành Tài – đơn vị chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!