Phân tích đoạn 1, 2 của Bình Ngô đại cáo chọn lọc hay nhất
1. Dàn ý phân tích đoạn 1, 2 của Bình Ngô đại cáo chọn lọc:
Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm
Thân bài:
– Lập luận chính trị:
“Nhân nghĩa” luôn là một phạm trù tư tưởng chủ yếu của Nho giáo, thể hiện mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo đức.
Đối với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” luôn gắn liền với “yên dân” và muốn “yên dân” thì phải trừ bạo để mang lại cho nhân dân cuộc sống yên bình, ấm no.
– Độc lập của dân tộc ta:
Dân tộc Đại Việt ta từ ngàn đời nay đã có nền văn hiến lâu đời, có biên giới, lãnh thổ, phong tục tập quán Nam Bắc.
Dân tộc ấy đã trải qua bao triều đại, sát cánh cùng các triều đại phong kiến phương Bắc
Dân tộc ta đã có những chiến công vang dội, lừng lẫy của quân và dân ta trong lịch sử chống giặc ngoại xâm.
– Tội ác của giặc trước hết là lợi dụng lúc nước nhà đang rối ren để xâm lược nước ta làm cớ.
– Thi hành hàng loạt chính sách vô nhân đạo, tàn ác: “nướng dân đen”, “chôn sống trẻ em”, đẩy nhân dân vào chốn rừng thiêng nước độc đầy hiểm nguy,…
– Ra sức vơ vét của cải, thu thuế vô lý, hủy hoại môi trường, cảnh quan của nước ta.
=> Tác giả khép lại đoạn 2 của tác phẩm bằng hai câu văn giàu hình ảnh và đầy sức ám ảnh về tội ác giặc Minh gây ra trên đất nước ta.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Bài phân tích đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo ngắn gọn nhất:
Nguyễn Trãi luôn nêu cao chính nghĩa của dân tộc Đại Việt. Tác giả đã giữ vững công lí bằng những lí lẽ cụ thể và tố cáo tội ác của kẻ thù bằng một bản cáo trạng hùng hồn, đẫm máu và nước mắt.
Từ bao đời nay, dù theo Nho giáo, hay bất kỳ quốc gia, dân tộc nào, vấn đề công lý luôn được xác định là tình cảm, là sợi dây tình cảm giữa con người với con người, đã trở thành một nguyên tắc đạo đức. Từ nền tảng tư tưởng nhân văn vốn có, tác giả mở rộng và phát triển thành một lý thuyết mạch lạc. Từ đó, như một đòn bẩy nêu lên những tiền đề, căn cứ để vạch trần tội ác của quân Minh xâm lược. Chúng ta đấu tranh chống ngoại xâm, thể hiện tư tưởng nhân đạo mà mọi dân tộc theo đuổi, chúng ta có độc lập, tự do là đúng đắn và hoàn toàn phù hợp. Vì chúng ta có một lãnh thổ, một nền văn hóa lâu đời, một lịch sử, một chế độ riêng và thế hệ nào cũng có. Khẳng định tính trang trọng, hào hùng của một bản tuyên ngôn.
Nếu như trong Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt chỉ xác định nền độc lập của dân tộc ta trên hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền quốc gia thì Nguyễn Trãi đã mở rộng định nghĩa trên nhiều phương diện hơn. Mang chiều sâu hơn vì Lý Thường Kiệt dựa trên kinh điển, yếu tố thần thánh chứ không phải sự thật lịch sử. Nguyễn Trãi đã nhận thức rõ nét văn hóa, truyền thống lịch sử là tính nhân văn của dân tộc ta, sẵn sàng xả thân vì nước, vì dân, vì con cháu mai sau. Cơ sở từ đoạn một là quan trọng. quan trọng, là điểm mấu chốt của toàn bài để phát triển các vấn đề khác vì nó nêu lên được luận cứ đúng đắn tạo nên những tư tưởng cốt lõi, nền tảng, tinh thần cho thắng lợi của mười cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nguyễn Trãi luôn nêu cao tính nhân dân, tính dân tộc
Tác giả đã vạch trần những âm mưu và tội ác của kẻ thù, vạch trần sự đê tiện, đạo đức giả của chúng. Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường quốc gia, vị trí nhân dân, vạch trần mọi tội ác, sự trơ trẽn, man rợ trong chế độ cai trị của chúng. Chúng tàn sát con người, khai thác cạn kiệt, phá hủy môi trường sống. Nhân dân ta cơ cực, khốn khổ, đói nghèo bủa vây, không lối thoát. Cái chết chờ đợi họ trên rừng, dưới biển,… Còn kẻ thù thì ngày càng tàn bạo, dã man như lũ quỷ dữ. Tác giả đã vạch trần thủ đoạn gian manh của kẻ thù và vạch trần âm mưu cướp nước của chúng. Tội ác mà chúng gây ra đối với nhân dân ta là vô cùng dã man. Đoạn văn thể hiện nỗi lòng của tác giả trước nỗi khổ của nhân dân, giọng điệu có lúc giận dữ, có lúc xót xa, có lúc trữ tình. Dựa vào quyền sống của người dân vô tội để lên án tội ác của giặc, Đại Cáo Bình Ngô đã có yếu tố của bản tuyên ngôn nhân quyền. Đây là bài học lịch sử, là sự đổi thay trong thực tế phục hưng, là nguyên nhân và điều kiện để tạo dựng sự bền vững, mở ra những triển vọng tươi sáng cho đất nước.
Đây là bản anh hùng ca tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh gian khổ, anh dũng nhưng kiên cường của quân và dân Đại Việt. Đó là bản tuyên ngôn độc lập có giá trị to lớn về tư tưởng yêu nước, nhân nghĩa và khát vọng hòa bình của dân tộc.
3. Bài phân tích đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo hay nhất:
Mở đầu bài cáo, tác giả đã nêu lên một ý lớn làm tôn chỉ cho toàn bài.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Đó là tư tưởng nhân nghĩa, nhưng không phải là nhân nghĩa chung chung, mà gắn với mục đích “yên dân”, “trừ bạo”, với nội dung yêu nước, thương dân. Sự tồn tại của nước Đại Việt ta đã được sự thật lịch sử chứng minh:
Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Nước non bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác; Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập; Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương; Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt thời nào cũng có.
Có đầy đủ các yếu tố của một quốc gia độc lập, tự chủ: quốc hiệu (tên nước), văn hóa, lãnh thổ, phong tục tập quán, con người và đặc biệt là nền “độc lập” đã được tạo dựng từ bao đời nay. Bằng lời lẽ mạnh mẽ, dứt khoát, với lời khẳng định chắc nịch, Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách hùng hồn chủ quyền dân tộc. Nguyễn Trãi làm nổi bật lịch sử các triều đại bằng phép liệt kê, phép đối, khẳng định bề dày lịch sử của đất nước, khẳng định vị thế độc lập của Đại Việt sánh ngang với các triều đại phong kiến phương Bắc.
Điều đó cũng khẳng định hậu quả tất yếu là sự thất bại của kẻ thù khi chúng xâm phạm độc lập, chủ quyền của dân tộc ta:
Vậy nên: Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết chí lớn phải vong thân; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Nguyễn Trãi đã cho ta thấy những chiến công hiển hách của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền tự do của Tổ quốc. Bằng chứng rõ ràng, cụ thể bằng lời lẽ chắc nịch, hào hùng, thể hiện lòng tự hào dân tộc.
Nói về nước Đại Việt ta, cảm hứng của tác giả tràn đầy niềm tự hào dân tộc. Các câu đối song đối, cân đối tạo giọng điệu trang nghiêm, khẳng định khi nói về một đất nước độc lập, tự chủ: và đặc biệt nghệ thuật so sánh đã làm toát lên và khẳng định rằng: Nguyễn Trãi dựng nên các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần của Việt Nam ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Nếu không có niềm tự hào dân tộc mạnh mẽ thì sẽ không có sự so sánh như vậy.
Đoạn 2 là bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của quân Minh xâm lược. Nguyễn Trãi đã vạch trần âm mưu thâm độc của chúng: Lợi dụng lúc nhà Hồ suy tàn, giặc Minh nhân cơ hội cướp nước ta :
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận. Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa ……. Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Tác giả khẳng định đó là tội ác “phá nhân, diệt thiên” và miêu tả tội ác man rợ của chúng. Đây là cuộc tàn sát, giết hại đồng bào, không kể cả trẻ em: Nướng dân đen trong ngọn lửa hung tàn – Vùi những đứa trẻ đỏ đen trong hố sâu tai họa.” Rồi chúng bóc lột nhân dân ta bằng thuế má, cường quyền để cướp tài nguyên của đất nước , đẩy con người đến bước đường cùng, thậm chí tính mạng không được đảm bảo:
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc. Còn dã man, tàn bạo đến mức: Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. Nặng nề những nỗi phu phen, Tan tác cả nghề canh cửi.
Hậu quả mà chúng để lại thật tàn khốc: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con thơ dại, muôn loài bị tiêu diệt, diệt vong, sản xuất đình trệ, nhân dân lầm than.
Để làm nổi bật tội ác của quân xâm lược, tác giả đã sử dụng biện pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng câu văn giàu hình ảnh, giọng điệu thay đổi linh hoạt phù hợp với cảm xúc. Có lúc giận dỗi , căm giận đến tận xương tủy quân xâm lược tàn bạo, có lúc tỏ ra thương hại, xót xa cho nhân dân ta.
Cáo trạng mở đầu bằng một hình ảnh đầy ấn tượng: “Đập nát dân đen trên đống lửa hung tàn – Vùi xác con hồng nhan trong hố thảm”, rồi kết thúc bằng một hình ảnh có giá trị tổng kết cao là bản án oan nghiệt và mỉa mai của nhân dân ta cho tội ác của chúng:
Lẽ nào trời đất dung tha Ai bảo thần nhân chịu được?
4. Bài phân tích 2 đoạn đầu Bình Ngô Đại Cáo đạt điểm cao nhất:
Nguyễn Trãi là một vị quan trong lịch sử dân tộc Việt Nam nhưng đồng thời ông cũng là một nhà văn, một danh nhân văn hóa lớn của dân tộc và trên thế giới. Ông đã đóng góp vào kho tàng văn học trung đại nói riêng và kho tàng văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm văn học có giá trị và trong số đó “Bình Ngô Đại Cáo” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Bản cáo trạng được coi là “bản tuyên ngôn độc lập” thứ hai của dân tộc. Đặc biệt, qua đoạn một và đoạn hai của bản báo cáo, người đọc sẽ thấy rõ những lý lẽ chính đáng của nhân dân ta cũng như tội ác man rợ của kẻ thù.
Trước hết, đoạn trích mở đầu tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” đã nêu lên luận điểm chính nghĩa và chân lý của độc lập dân tộc, là nền tảng, cơ sở lý luận xuyên suốt cuộc kháng chiến của quân và dân ta.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Có thể thấy, “nhân nghĩa” luôn là một phạm trù tư tưởng chủ yếu của Nho giáo, thể hiện mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo đức. Là một nhà Nho, chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, nền tảng tư tưởng của Nguyễn Trãi cũng là tư tưởng “nhân nghĩa”. Đối với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” luôn gắn liền với “yên dân” và muốn “yên dân” thì phải trừ bạo để mang lại cho nhân dân cuộc sống yên bình, ấm no. Như vậy, có thể thấy, cốt lõi tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi là lấy dân làm gốc, làm nền, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân, đánh đuổi cường quyền.
Ngoài ra, tác giả còn nêu lên chân lý độc lập có từ ngàn đời của dân tộc.
Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có.
Chỉ bằng một đoạn văn ngắn, tác giả Nguyễn Trãi đã gợi lên cả một trang lịch sử ngàn năm văn hiến của dân tộc. Cũng như bao dân tộc, đất nước khác, đất nước và con người Đại Việt từ ngàn đời nay có nền văn hiến lâu đời, có biên giới, lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán Nam, Bắc riêng. Dân tộc ấy đã trải qua các triều đại, sát cánh cùng các triều đại phong kiến phương Bắc. Và việc đặt các triều đại của dân tộc ta ngang hàng với các triều đại phong kiến Trung Quốc vừa là sự khẳng định truyền thống độc lập của dân tộc, vừa thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc của tác giả. Ngoài ra, để khẳng định chân lý độc lập của dân tộc, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo nhắc đến những chiến công vang dội, lừng lẫy của quân dân ta trong lịch sử.
Lưu Cung tham công nên thất bại Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Trên cơ sở những tiền đề lý luận đã nêu, trong phần tiếp theo của báo cáo, tác giả đã phản ánh lý luận đó vào thực tiễn nhằm làm sáng tỏ tội ác man rợ của kẻ thù. Tội ác của địch trước hết là lợi dụng lúc đất nước khó khăn, lấy cớ đó để xâm lược nước ta.
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng minh thừa cơ gây họa Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Không chỉ vậy, sau khi xâm lược nước ta, chúng còn thi hành hàng loạt chính sách vô nhân đạo, tàn ác.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Hãy chôn con đỏ trong hố thảm họa.
Bọn giặc quá dã man, chúng giết hại những người dân lương thiện bằng những hành động hết sức man rợ, thậm chí cả “dân đen” – những người dân vô tội và cả những đứa trẻ chúng cũng không tha. Bằng nghệ thuật đảo ngữ, đặt các động từ “nâng ly”, “chôn” ở đầu câu thơ, tác giả dường như muốn nhấn mạnh sự dã man, tàn ác của quân xâm lược. Cùng với đó, địch còn tàn sát đồng bào bằng cách đẩy họ vào những nơi nguy hiểm, vào những nơi mà đồng bào biết rằng khi ra đi sẽ khó quay trở lại.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc
Cùng với đó, tội ác của địch còn ở chỗ ra sức vơ vét của cải, sưu cao thuế khóa vô lý, hủy hoại môi trường, cảnh quan ở nước ta.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng, Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Và rồi, tác giả đã khép lại đoạn 2 của tác phẩm bằng hai câu văn giàu hình ảnh và đầy sức ám ảnh về tội ác mà quân Minh xâm lược đã gây ra trên đất nước ta.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Tác giả Nguyễn Trãi đã dùng đến vô cùng ” trúc Nam Sơn”, “Nước Đông Hải” để nói về tội ác của giặc. Từ đó, người đọc thấy được tội ác khôn tả, không thể tả của kẻ thù. Và trước những hành động đó của quân Minh xâm lược, quân dân ta, nhân dân ta không còn cách nào khác là phải đứng lên hành động.
Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần nhân chịu được?
Tóm lại, với hình ảnh thơ độc đáo, ngôn ngữ sắc bén, giọng điệu linh hoạt, hai câu thơ mở đầu của “Bình Ngô đại cáo” không chỉ cho người đọc thấy luận điểm chính đáng, độc lập của dân tộc ta, qua đó người đọc thấy được tội ác không thể tha thứ của kẻ thù.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!