Kể về một anh hùng chống ngoại xâm mà em biết (40 mẫu)
Những vị anh hùng chống ngoại xâm thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng. Chính vì vậy, Download.vn sẽ giới thiệu bài Tập làm văn lớp 3: Kể về một anh hùng chống ngoại xâm mà em biết.
Nội dung bao gồm dàn ý và 40 bài văn mẫu, nhằm giúp các bạn học sinh lớp 3 có thêm ý tưởng cho bài viết của mình. Mời tham khảo ngay bên dưới.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Hai Bà Trưng
Đoạn văn mẫu số 1
Đoạn văn mẫu số 2
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm dưới sự xâm lược của triều đại phong kiến phương Bắc. Nhiều vị anh hùng đã đứng lên lãnh đạo nhân dân chống lại kẻ thù. Trong đó em ngưỡng mộ nhất là Hai Bà Trưng. Hai bà là hai chị em ruột, người chị tên là Trưng Trắc, người em tên là Trưng Nhị. Hai bà quê ở huyện Mê Linh, từ nhỏ đã nổi tiếng là hai người con gái tài giỏi. Cha hai bà mất sớm, nhờ mẹ dạy dỗ, hai chị em đều giỏi võ nghệ. Thuở ấy, nước ta bị nhà Hán đô hộ. Chúng đàn áp dân lành hết sức tàn bạo. Chúng thẳng tay chém giết dân ta, cướp hết ruộng đất của dân. Nhân dân ta mang lòng oán hận ngút trời, chỉ chờ dịp để vùng lên đánh đuổi quân xâm lược. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách cũng mang trong mình chí hướng giành lại non sông. Tướng giặc là Tô Định biết vậy, bèn lập mưu giết chết Thi Sách. Khi nghe tin chồng bị giặc giết chết, Bà Trưng Trắc đã cùng với em gái mình là Trưng Nhị lãnh đạo nghĩa quân đến thành Luy Lâu hỏi tội kẻ thù. Đi đến đâu, tiếng trống đồng của quân ta dội vàng đất trời tới đó. Cuối cùng, thành trì của giặc lần lượt sụp đổ dưới đoàn quân khởi nghĩa. Tướng giặc sợ hãi, ôm đầu chạy về nước. Đất nước ta sạch bóng quân thù. Em rất ngưỡng mộ Hai Bà Trưng.
Đoạn văn mẫu số 3
Một trong những vị anh hùng dân tộc mà em cảm thấy vô cùng ngưỡng mộ là Hai Bà Trưng. Bấy giờ ở huyện Mê Linh có hai người con gái tài giỏi là Trưng Trắc và em là Trưng Nhị. Trưng Trắc có chồng là Thi Sách. Ông là Lạc tướng cũng cùng chí hướng với vợ. Tướng giặc là Tô Định làm thứ sử Giao Châu thời ấy biết được bèn lập mưu giết chết Thi Sách. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa để trả nợ nước, đền thù nhà. Nghĩa quân đi đến đâu, giặc tan đến đó. Cuối cùng hai bà tiến về giải phóng thành Luy Lâu. Tướng giặc Tô Định tháo chạy về nước. Hai Bà lên ngôi vua, xưng là Trưng Nữ Vương. Đến năm 43, quân giặc cử Mã Viện, đến đàn áp cuộc khởi nghĩa. Hai Bà lãnh đạo quân ta chiến đấu anh dũng nhưng vì thế giặc quá mạnh, hai bà liền nhảy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết. Tấm gương của Hai Bà Trưng vẫn sáng ngời cho đến tận bây giờ.
Đoạn văn mẫu số 4
Em rất ngưỡng mộ hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị. Họ là những nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử của đất nước. Khi đó, nhà Hán ở phương Bắc đem quân sang xâm lược nước ta. Chúng áp bức, bóc lột nhân dân ta vô cùng dã man. Chồng của bà Trưng Trắc là Thi Sắc có chí lớn muốn tiêu diệt kẻ thù. Nhưng ông đã bị tướng giặc Tô Định bày mưu giết chết. Trước mối nợ nước thù nhà, bà Trưng Trắc đã cùng với Trưng Nhị khởi nghĩa, đánh bại quân giặc. Nghĩa quân của bà đi đến đâu cũng được hưởng ứng. Hai Bà Trưng chính là tấm gương để em học tập, noi theo.
Đoạn văn mẫu số 5
Lịch sử Việt Nam đã trải qua hơn một năm Bắc thuộc. Từ xưa đến nay, nhiều vị anh hùng đã lãnh đạo nhân dân đánh bại kẻ thù. Nhưng em cảm thấy ngưỡng mộ nhất đó là hai Bà Trưng gồm Trưng Trắc và Trưng Nhị. Họ là những người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử đất nước dám đứng lên khởi nghĩa chống lại kẻ thù. Lúc bấy giờ, quân Nam Hán sang xâm lược nước ta. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách bị tướng giặc là Tô Định giết chết. Nợ nước cộng thêm thù nhà, bà Trưng Trắc đã cùng em gái là Trưng Nhị phát cờ khởi nghĩa. Quân giặc thua trận, Tô Định tháo chạy về nước, quân ta giành chiến thắng. Như vậy, Hai Bà Trưng chính là tấm gương đáng ngưỡng mộ.
Đoạn văn mẫu số 6
Hai Bai Trưng là cách gọi bà Trưng Trắc và bà Trưng Nhị. Họ là những vị anh hùng của dân tộc Việt Nam. Lúc bấy giờ, quân Nam Hán xâm lược nước ta. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách bị tướng giặc Tô Định giết. Nợ nước cùng với thù nhà, bà Trưng Trắc đã cùng với Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, đánh bại kẻ thù. Tướng giặc Tô Định thua trận phải tháo chạy về nước. Em rất ngưỡng mộ hai vị nữ anh hùng này.
Đoạn văn mẫu số 7
Dân tộc Việt Nam có rất nhiều vị anh hùng nổi tiếng. Trong đó, em rất ngưỡng mộ hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị. Lúc bấy giờ, nhà Hán ở phương Bắc sang xâm lược nước ta. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách nuôi chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Nhưng ông bị tướng giặc là Tô Định giết chết. Nợ nước thù nhà, bà Trưng Trắc và Trưng Nhị đã lãnh đạo nhân dân, đánh bại kẻ thù. Tướng giặc Tô Định phải tháo chạy về nước. Sau đó, bà Trưng Trắc lên làm vua. Hai Bà Trưng chính là tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước.
Đoạn văn mẫu số 8
Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Quân Hán ở phương Bắc sang xâm lược nước ta. Chúng làm nhiều điều bạo ngược. Khi ấy, chồng bà Trưng Trắc bị tướng giặc giết chết. Nợ nước thù nhà, bà Trưng Trắc và Trưng Nhị đã phất cờ khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa được nhân dân ủng hộ. Cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, đất nước được độc lập. Tinh thần cùng sự dũng cảm của bà Trưng Trắc và Trưng Nhị đã trở thành tấm gương cho mỗi người dân Việt Nam.
Đoạn văn mẫu số 9
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chúng ta có thể kể đến rất nhiều cái tên tiêu biểu. Nhưng em cảm thấy khâm phục nhất là Hai Bà Trưng. Đó là Trưng Trắc và Trưng Nhị, là hai chị em ruột. Chồng của bà Trưng Trắc bị thái thú Tô Định giết hại một cách dã man. Nợ nước, thù nhà khiến cho quyết tâm của hai bà càng cao. Trưng Trắc và Trưng Nhị đã quyết định nổi binh chống lại quân Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa nhận được sự hưởng ứng của nhân dân khắp nơi, sau đó giành được chiến thắng. Không lâu sau, quân giặc xâm lược trở lại. Hai Bà kiên cường chống trả nhưng do quân địch quá mạnh nên đã thua trận. Theo người xưa kể lại, sau khi thua trận, hai bà đã nhảy xuống sông Hát Giang tử tử để giữ trọn khí tiết. Hai Bà Trưng chính là tấm gương sáng ngời về tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Họ còn là những nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử dân tộc, đó chính là điều khiến em cảm thấy vô cùng khâm phục.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Bác Hồ
Đoạn văn mẫu số 1
Đoạn văn mẫu số 2
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta có rất nhiều anh hùng được sử sách ghi danh, một trong số đó là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Pháp, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và kiểu mới để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn hết lòng, hết sức xây dựng sự đoàn kết nhất trí giữa các Đảng Cộng sản anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, không ngừng vun đắp quan hệ gắn bó, hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương. Chúng em rất biết ơn người. Em sẽ chăm chỉ học tập để sau này trở thành một công dân có ích cho xã hội như lời Bác Hồ đã dạy.
Đoạn văn mẫu số 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mà em vô cùng kính trọng. Suốt ba mươi năm bôn ba nước ngoài, Bác đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc. Không chỉ vậy, Người còn lãnh đạo nhân dân ta đánh bại thực dân Pháp, giành lại độc lập cho đất nước. Bác Hồ cũng là tấm gương sáng ngời về một nhân cách đạo đức cao đẹp. Bác được UNESCO phong tặng danh hiệu “Anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới”. Em sẽ cố gắng học tập theo tấm gương đạo đức của Bác.
Đoạn văn mẫu số 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Khi còn là một chàng thanh niên, Bác đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc. Suốt ba mươi năm bôn ba nước ngoài, Người đã vượt qua mọi khó khăn, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Bác Hồ cũng là tấm gương sáng ngời về một nhân cách đạo đức cao đẹp. Lối sống của Bác giản dị, nhưng rất thanh cao. Bác đã được UNESCO phong tặng danh hiệu “Anh hùng giải phóng dân tộc” và “Danh nhân văn hóa thế giới”. Em rất ngưỡng mộ và kính trọng Bác Hồ.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Kim Đồng
Đoạn văn mẫu số 1
Người anh hùng mà em vô cùng ngưỡng mộ là anh Kim Đồng. Anh là người dân tộc Nùng. Quê của anh ở tỉnh Cao Bằng. Anh tham gia cách mạng từ khi còn rất nhỏ. Trong một lần đi liên lạc về giữa đường gặp địch phục kích, Kim Đồng nhanh trí nhử cho địch nổ súng về phía mình. Nhờ đó mà các đồng chí cán bộ ở gần đó đã nhanh chóng trốn thoát lên rừng. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh tại một địa điểm gần ngay ở suối Lê Nin khi anh vừa tròn mười bốn tuổi. Kim Đồng đã được nhà nước ta phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang”.
Đoạn văn mẫu số 2
Em rất ngưỡng mộ anh Kim Đồng. Anh là người dân tộc Nùng. Anh là một trong năm thành viên đầu tiên, cũng như là đội trưởng của Đội Nhi đồng cứu quốc. Kim Đồng đã cùng đồng đội thực hiện nhiệm vụ giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Trong một lần nọ, khi các cán bộ đang có cuộc họp, anh phát hiện có quân Pháp tới, anh đã nhanh trí đánh lạc hướng chúng, đồng thời phát tín hiệu cho cán bộ rút lui an toàn. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh. Sau này, Kim Đồng được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Anh là một tấm gương sáng ngời để em học tập.
Đoạn văn mẫu số 3
Anh Kim Đồng là người dân tộc Nùng. Anh là một trong năm thành viên đầu tiên, cũng như là đội trưởng của Đội Nhi đồng cứu quốc. Kim Đồng đã cùng đồng đội thực hiện nhiệm vụ giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Trong một lần nọ, khi các cán bộ đang có cuộc họp, anh phát hiện có quân Pháp tới, anh đã nhanh trí đánh lạc hướng chúng, đồng thời phát tín hiệu cho cán bộ rút lui an toàn. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh. Sau này, Kim Đồng được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Em rất ngưỡng mộ anh Kim Đồng.
Đoạn văn mẫu số 4
Kim Đồng là vị anh hùng mà em rất ngưỡng mộ. Anh là người dân tộc Nùng. Quê của anh ở tỉnh Cao Bằng. Tham gia cách mạng từ nhỏ, anh trở thành thành viên đầu tiên, cũng như là đội trưởng của Đội Nhi đồng cứu quốc. Nhiệm vụ của em là giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Một lần, khi các cán bộ đang có cuộc họp, anh phát hiện có quân Pháp tới, anh đã nhanh trí đánh lạc hướng chúng, đồng thời phát tín hiệu cho cán bộ rút lui an toàn. Anh đã hy sinh khi tuổi còn rất nhỏ. Kim Đồng được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Kim Đồng là tấm gương để chúng em học tập về lòng dũng cảm, tình yêu đất nước.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Võ Thị Sáu
Đoạn văn mẫu số 1
Võ Thị Sáu, vị nữ anh hùng của dân tộc. Chị được sinh ra ở huyện Đất Đỏ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào năm 1933. Võ Thị Sáu là người con gái vô cùng thông minh, mưu trí, có tinh thần yêu nước và dũng cảm. Dù tuổi đời còn rất nhỏ nhưng chị đã tham gia làm liên lạc viên cho đoàn quân cách mạng của chúng ta và lập được rất nhiều chiến công hiển hách đáng khen thưởng. Năm 1948, chị được cấp trên giao cho nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó chính là phải đánh phá một buổi lễ mít tinh nhằm kỷ niệm ngày chào mừng Quốc khánh của thực dân Pháp để gây nhiễu loạn và phá hoại âm mưu của kẻ thù. Tại buổi lễ mít tinh đó chị Võ Thị Sáu đã tung lựu đạn vào khán đài có tỉnh trưởng Lê Thành Trường – một lãnh đạo cấp cao của bè lũ tay sai cho thực dân Pháp để giải tán đám đông. Chính chiến công này đã giúp cho chị Võ Thị Sáu của chúng ta lập thêm nhiều chiến công khác oanh liệt hơn. Sau đó, chị Võ Thị Sáu được cơ quan trung ương Đảng giao cho nhiệm vụ tiêu diệt kẻ gian tế, nên tháng hai năm 1950 trong khi đi làm nhiệm vụ chị đã bị kẻ thù bắt giữ. Bọn giặc ngoại xâm đã tra tấn chị Võ Thị Sáu của chúng ta vô cùng dã man, bắt chị khai ra những đồng đội của mình. Nhưng chị anh dũng kiên quyết không khai chúng dùng nhiều thủ đoạn tra tấn tàn bạo như dùng dùi điện cho điện giật vào người chị, hay dùng dùi nung lửa nóng khoan lên người chị… Cuối cùng không làm được gì chị Võ Thị Sáu chúng buộc lòng đày chị ra Côn Đảo là nơi chuyên giam giữ và đày đọa những người tù chính trị của nước ta, là nấm mồ chôn thân của rất nhiều người anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam ta. Tới ngày 23 tháng 1 năm 1952, chị Võ Thị Sáu anh hùng của chúng ta bị mang ra pháp trường xử tử khi tuổi đời chỉ tròn mười chín tuổi. Cho tới sau này khi đất nước chúng ta hoàn toàn sạch bóng kẻ thù năm 1993 chị Võ Thị Sáu được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, là một trong những chiến sĩ vô cùng trẻ tuổi của ta được vinh danh thiên cổ. Tấm gương của chị Võ Thị Sáu làm cho chúng em vô cùng ngưỡng mộ, kính trọng vì những gì chị đã hy sinh cho quê hương, tổ quốc để chúng em hôm nay được hưởng cuộc sống thái bình.
Đoạn văn mẫu số 2
Chị Võ Thị Sáu là người em rất kính trọng và ngưỡng mộ. Chị sinh năm 1933 và mất năm 1952. Từ năm mười lăm tuổi, chị đã hăng hái tham gia cách mạng, lập nhiều chiến công vang dội. Vào tháng 5 năm 1950, bị giặc Pháp bắt, tra tấn dã man nhưng chị vẫn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Năm 1952, chị bị đày ra Côn Đảo, bị xử tử. Năm 1993, Nhà nước đã trân trọng truy tặng chị Huân chương chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Chị Võ Thị Sáu chính là tấm gương để em học tập.
Đoạn văn mẫu số 3
Em rất ngưỡng mộ chị Võ Thị Sáu. Chị tham gia cách mạng khi còn nhỏ và lập được nhiều chiến công. Sau này, chị bị giặc bắt, tra tấn dã man. Nhưng chị vẫn giữ được tinh thần của người cách mạng. Cuối cùng, chị bị đày ra Côn Đảo và bị xử tử. Chị Võ Thị Sáu chính là tấm gương để em học tập và noi theo.
Đoạn văn mẫu số 4
Chị Võ Thị Sáu là một người em rất ngưỡng mộ. Chị sinh năm 1933 và mất năm 1952. Quê ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Từ năm mười lăm tuổi, chị đã hăng hái tham gia cách mạng, lập nhiều chiến công vang dội. Vào tháng 5 năm 1950, bị giặc Pháp bắt, tra tấn dã man nhưng chị vẫn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Năm 1952, chị bị đày ra Côn Đảo, bị xử tử. Năm 1993, Nhà nước đã trân trọng truy tặng chị Huân chương chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Chị là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước, để chúng em học tập và noi theo.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Trần Quốc Toản
Đoạn văn mẫu số 1
Đoạn văn mẫu số 2
Trần Quốc Toản là vị anh hùng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai, và hy sinh khi còn rất trẻ. Em đã từng đọc được câu chuyện về Trần Quốc Toản. Khi vua Trần Nhân Tông mở hội, cùng các quan bàn chuyện chống quân Nguyên. Vua thấy Trần Quốc Toản còn trẻ nên không cho vào dự. Ông cảm thấy tức giận mà bóp nát quả cam trong tay lúc nào không hay. Câu chuyện về Trần Quốc Toản đã thể hiện được tấm lòng yêu nước của một vị anh hùng dân tộc. Ông chính là tấm gương để chúng em học hỏi và noi theo.
Đoạn văn mẫu số 3
Em rất ngưỡng mộ vị anh hùng Trần Quốc Toản. Một con người trẻ tuổi, nhưng dũng cảm. Thấy sứ giặc ngang ngược, Quốc Toản vô cùng căm giận. Khi biết nhà vua bàn việc dưới thuyền, cậu đã xô lính để xuống thuyền xin vua cho đánh. Nhà vua thấy cậu còn trẻ nên không trách phạt, còn ban cho một quả cam. Khi trở về, Quốc Toản cho mọi người xem thì quả cam đã nát từ bao giờ. Trần Quốc Toản chính là một tấm gương để em học hỏi, noi theo.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – vua Quang Trung
Đoạn văn mẫu số 1
Vào thế kỉ thứ XVI, đất nước chìm vào cuộc nội chiến do hai chúa: chúa Trịnh chuyên quyền lấn át vua Lê ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ra sức xây dựng và mở mang thế lực ở Đàng Trong. Nội chiến của nước ta là điều kiện thuận lợi cho phong kiến phương Bắc tiến quân xâm lấn. Năm 1786, ba anh em nhà Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa và làm chủ được nhiều nơi. Năm 1788, quân Thanh ồ ạt đưa quân vào Thăng Long. Nguyễn Huệ lập tức lên ngôi vua và chỉ huy toàn lực lượng tiến quân ra Bắc. Hành quân thần tốc và chỉ trong năm ngày chiến đấu, vua Quang Trung Nguyễn Huệ giải phóng hoàn toàn thành Thăng Long, đánh đuổi quân Thanh ra khỏi đất nước ta. Giải phóng hoàn toàn đất nước, vua Quang Trung bắt tay xây dựng Tổ quốc. Tiếc thay, mọi cải cách của ông đang tiến hành thì ông đột ngột từ trần. Người anh hùng áo vải, cờ đào khi ấy chỉ mới bốn mươi tuổi. Vua Quang Trung mất đi để lại trong lòng người dân Việt sự kính trọng, mến tiếc khôn nguôi và lòng tự hào về một anh hùng chống ngoại xâm lỗi lạc.
Đoạn văn mẫu số 2
Quang Trung (Nguyễn Huệ) là vị vua mà em cảm thấy ngưỡng mộ nhất. Ông cùng với hai người anh trai đã dựng cờ khởi nghĩa để chấm dứt cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh, từ đó thống nhất đất nước. Sau khi lên ngôi vua, ông đã có những chính sách giúp đất nước phát triển thịnh vượng. Không chỉ vậy, ông còn lãnh đạo nhân dân ta đánh bại quân Thanh xâm lược. Vua Quang Trung là một con người trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng. Ông được nhân dân yêu mến gọi là “anh hùng áo vải”.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Vua Lê Lợi
Lê Lợi chính là vị anh hùng dân tộc mà em vô cùng ngưỡng mộ. Ông là vị vua đầu tiên của nhà Hậu Lê – triều đại dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Nhà vua sinh năm 1385. Khi vua hai mươi mốt tuổi, giặc Minh kéo sang xâm lược nước ta. Trước những cai trị độc ác của kẻ thù, Lê Lợi nuôi chí lớn đánh đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Lê Lợi đã tập hợp quân lính để thực hiện điều đó. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nhanh chóng diễn ra. Sau chục năm chiến đấu gian khổ, vị tướng Lê Lợi và toàn quân đã thắng lợi, dẹp tan giặc Minh. Lê Lợi lên ngôi hoàng đế. Vị vua thành lập ra nhà Hậu Lê đã đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ. Lê Lợi quả thực là một anh hùng dân tộc ta.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Nguyễn Thị Minh Khai
Lịch sử nước ta có biết bao nhiêu cuộc vị anh hùng chống ngoại xâm cứu nước lỗi lạc mà xuất thân từ những người dân bình thường. Nguyễn Thị Minh Khai chính là một trong những con người như vậy. Năm mười sáu tuổi bà đã tham gia hoạt động cách mạng. Trong đấu tranh bà rất kiên cường, nhanh trí khiến bọn giặc Pháp nhiều phen hoảng sợ và tìm mọi cách hãm hại bà. Năm 1940, Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt. Giặc tra tấn bà hết sức dã man nhưng sau mỗi trận đòn tra tấn đó Nguyễn Thị Minh Khai đã dùng máu của mình viết nên những câu thơ nêu cao khí tiết của người chiến sĩ cộng sản. Chúng đã đưa bà ra xử bắn. Em rất tự hào được học dưới mái trường mang tên người anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Triệu Thị Trinh
Vị anh hùng dân tộc mà em ngưỡng mộ chính là Triệu Thị Trinh. Bà quê ở Thanh Hóa. Từ thời thiếu nữ bà đã bộc lộ tính cách mạnh mẽ, thích võ nghệ. Bà bắn cung rất giỏi, có lần đã bắn hạ một con báo hung dữ trước sự thản phục của trai tráng trong làng. Chứng kiến cảnh nhân dân bị giặc Ngô đánh đập, cướp bóc, Triệu Thị Trinh nung nấu ý chí trả thù nhà. Năm 248, bà cùng anh là Triệu Quốc Đạt lãnh đạo binh sĩ chống quân xâm lược. Tuy cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng tấm lòng anh dũng của bà sáng mãi với trang sử vàng của nước nhà.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Hưng Đạo Đại Vương
Trần Quốc Tuấn (1231? – 1300), tước hiệu là Hưng Đạo Đại Vương. Ông là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc thời Trần. Năm 1285 và năm 1287, quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân. Cả hai lần ông đều lãnh đạo binh lính đánh bại quân giặc, giành được thắng lợi vẻ vang. Ông mất ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều trên đất nước. Hưng Đạo Đại Vương, Trần Quốc Tuấn là một vị anh hùng mà em vô cùng ngưỡng mộ, kính trọng.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Phan Bội Châu
Phan Bội Châu sinh năm 1867, mất năm 1940). Tên thuở nhỏ của ông là Phan Văn San. Ông quê ở làng Đan Nhiễm (nay là xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Phan Bội Châu là một nhà yêu nước, nhà cách mạng lớn nhất của dân tộc ta trong vòng hai mươi năm đầu thế kỉ XX. Trong quá trình hoạt động cách mạng, ông là người sáng lập ra hội Duy Tân, phong trào Đông Du có sức mạnh hưởng lớn đến hoạt động cách mạng. Ông cũng là người đầu tiên có tư tưởng ra nước ngoài để tìm đường cứu nước (sang Nhật) tuy nhiên đã thất bại. Mặc dù vậy, ông vẫn là người có đóng góp lớn cho hoạt động cách mạng của dân tộc. Phan Bội Châu là một tấm gương lớn về tinh thần yêu nước mà em cần học tập.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Ngô Quyền
Ngô Quyền là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Ông là người lãnh đạo nhân dân ta trong cuộc khởi nghĩa chống lại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Trận chiến này đã giúp nhân dân ta thoát khỏi hơn một nghìn năm bị triều đình phương Bắc đô hộ. Từ đó đã mở ra một thời kì độc lập cho dân tộc. Ngô Quyền còn được đưa vào danh sách một trong mười bốn anh hùng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Ông chính là vị anh hùng dân tộc mà em rất yêu mến và kính trọng.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Lý Thường Kiệt
Danh tướng Lý Thường Kiệt là một trong những vị anh hùng để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc trong em. Bài thơ Nam Quốc sơn hà mà rất nhiều thế hệ người Việt Nam thuộc nằm lòng chính là bài thơ được ông sáng tác:
“Nam quốc sơn hà nam đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ lai xâm phạmNhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
(Sông núi nước Nam vua Nam ởRành rành định phận tại sách trờiCớ sao lũ giặc sang xâm phạmChúng bay sẽ bị đánh tơi bời)
Nhưng ngoài tài văn chương thơ phú, tấm lòng, tinh thần và những đóng góp của ông cho đất nước và dân tộc cũng là những vấn đề đáng được nói đến. Năm 1077, nhà Tống kéo quân sang xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt đã lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống quân giặc và giành thắng lợi. Chiến lược đánh giặc của ông cũng rất hay. Cũng chính nhờ bài thơ “Nam quốc sơn hà” trên của ông được lan truyền đi khắp nơi, đến tai quân giặc và khiến chúng hoang mang, hoảng sợ trước khí thế của dân tộc ta, đóng góp phần công sức tinh thần làm cho quân giặc đại bại, phải cầu hòa xin về nước. Lý Thường Kiệt được ghi nhận là một trong số những anh hùng kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Một danh tướng văn võ song toàn rất đáng được ghi nhận. Em rất khâm phục tinh thần trượng nghĩa anh hùng và tấm lòng yêu nước thương dân của ông.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Trần Bình Trọng
Vào năm 1285, quân Nguyên Mông ồ ạt sang xâm lấn nước ta lần thứ ba. Thế giặc rất mạnh nên triều đình lãnh đạo toàn quân và dân rút về cố thủ ở những nơi hiểm yếu, để mặc thành quách, làng mạc trống trải gây hoang mang cho địch và bảo toàn lực lượng. Trên đường rút quân, Hưng Đạo Vương ra lệnh cho các tướng chốt đóng tại những nơi hiểm yếu cản bước tiến của giặc để bảo vệ Thái Thượng Hoàng và Thượng Hoàng. Danh tướng Trần Bình Trọng chỉ huy quân Cấm Dực, trấn giữ bãi sông Thiên Mạc. Thế giặc rất mạnh, Trần Bình Trọng chẳng may sa vào tay giặc. Biết ông là tướng tài, giặc ra sức dụ dỗ ông, hứa sẽ phong cho ông làm vương đất Bắc. Trần Bình Trọng khẳng khái đáp: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn là vương đất Bắc”. Biết không thể chiêu dụ ông, giặc trói ông ở bãi sông Thiên Mạc chờ nước triều dìm ông chết. Trần Bình Trọng hy sinh khi mới hai mươi sáu tuổi, tấm gương trung liệt của ông chói sáng nghìn thu.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Bà Triệu
Khi nói đến những nữ tướng dũng mãnh, tài hoa thời phong kiến, người ta thường nhắc ngay đến Hai Bà Trưng. Những đối với em, nữ tướng mà em ngưỡng mộ nhất chính là Bà Triệu (tên thật là Triệu Thị Trinh). Bà Triệu Thị Trinh còn được gọi là Triệu Trinh Nương, sinh ra tại miền núi Quan Yên, quận Cửu Chân, nay thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Từ nhỏ, bà đã tỏ ra là người mạnh mẽ, thông minh, tài sắc khác thường. Đến tuổi trưởng thành bà cùng anh là Triệu Quốc Đạt chiêu mộ trai tráng, tập hợp quân sĩ dấy binh khởi nghĩa ở đất Quan Yên, được dân chúng khắp vùng nô nức tham gia. Nghĩa quân nhanh chóng thu phục được các thành, ấp ở quận Cửu Chân và một số vùng của quận Giao Chỉ. Cuộc khởi nghĩa lan rộng như vũ bão và làm “Chấn động Giao Châu” lúc bấy giờ. Năm 248, Ngô Triều phải phái Lục Dận đem theo tám nghìn quân tinh nhuệ để đàn áp cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu. Do lực lượng nghĩa quân còn non trẻ, không đủ sức chống lại một đạo quân lớn hơn mình gấp bội. Nên trong một trận huyết chiến với quân thù, trước thế mạnh và mưu kế hiểm độc, đê hèn của giặc, bà Triệu đã tuẫn tiết ở núi Tùng, xã Phú Điền, huyện Hậu Lộc vào năm 248 khi bà chỉ mới hai mươi hai tuổi. Bà Triệu là một nữ anh hùng thực sự của đất nước ta với sự dũng cảm, can trường của mình. Noi gương bà, em sẽ cố gắng học tập thật giỏi, để khi lớn lên góp sức mình xây dựng đất nước vững mạnh hơn.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Nguyễn Trãi
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong suốt những năm đó, biết bao anh hùng đã đứng lên để lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập cho dân tộc. Nhưng em cảm thấy ấn tượng nhất với Nguyễn Trãi – vị tướng tài ba đã giúp quân ta giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống lại quân Minh xâm lược. Nguyễn Trãi (1380 – 1442), quê ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Khi quân Minh đến xâm lược nước ta, Nguyễn Trãi đã tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, là quân sư cho Lê Lợi trong nhiều trận đánh quan trọng. Không chỉ có tài năng quân sự, mà ông còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Ông được UNESCO công nhận là Danh nhân quân sự thế giới. Em rất ngưỡng mộ Nguyễn Trãi.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Phan Châu Trinh
Phan Châu Trinh (1872 – 1926) là một vị anh hùng mà em cảm thấy rất ngưỡng mộ. Ông sinh ra ở làng Tây Lộc, huyện Hà Đông (nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Phước, thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, sau khi thi đỗ Phó bảng và được bổ dụng làm quan. Nhưng ông chỉ làm quan trong một thời gian ngắn đã từ bỏ để chuyên tâm vào sự nghiệp cứu nước. Con đường cứu nước của ông là chú trọng vào thay đổi trình độ nhận thức của nhân dân. Tuy sau này thất bại nhưng vẫn đem đến những ảnh hưởng tích cực. Phan Châu Trinh được coi là một trong những nhà yêu nước tiêu biểu của phong trào cách mạng Việt Nam cuối thế kỉ XX.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Đinh Bộ Lĩnh
Vị anh hùng chống giặc ngoại xâm mà em cảm thấy ngưỡng mộ nhất đó chính là Đinh Bộ Lĩnh. Sau khi Ngô Quyền mất, loạn mười hai sứ quân khiến nhân dân khổ cực. Đinh Bộ Lĩnh đã có công dẹp loạn mười hai sứ quân, thống nhất đất nước. Sau đó ông lên ngôi vua, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt và đóng đô ở Hoa Lư. Hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh thời niên thiếu đã đi vào vào những trang thơ mà chúng em được học:
“Bé thì chăn nghé, chăn trâuTrận bày đã lấy bông lau làm cờLớn lên xây dựng cơ đồMười hai sứ tướng bây giờ đều thua”
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm – Lê Văn Tám
Lê Văn Tám là một người em rất ngưỡng mộ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tuy còn nhỏ tuổi nhưng Lê Văn Tám đã tham gia lực lượng kháng chiến. Anh đã cảm tử châm lửa để phá hủy một kho đạn của quân Pháp. Hành động đó đã thể hiện tinh thần “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” của nhân dân Việt Nam để giành lại độc lập từ tay kẻ thù xâm lược. Lê Văn Tám chính là một tấm gương sáng ngời về tinh thần dũng cảm, cùng như lòng căm thù giặc và tình yêu quê hương đất nước sâu sắc. Anh đã trở thành một người anh hùng trong lòng nhân dân Việt Nam.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!