Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu
Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu
Tượng cụ Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu tục gọi là Cụ Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù) sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ, tức ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh).
Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho. Thân sinh của Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Huy tự Dương Minh Phủ quê ở Thừa Thiên vào Gia Định khoảng năm 1822 làm Thư lại trong dinh Tổng trấn Gia Định thành của Tả quân Lê Văn Duyệt. Vào Gia Định, Nguyễn Đình Huy cưới người vợ thứ là bà Trương Thi Thiệt làng Tân Thới, huyện Bình Dương, sinh được bảy người con, Nguyễn Đình Chiểu là con trai đầu lòng. Nguyễn Đình Chiểu sinh ra trong thời kỳ chế độ phong kiến mục nát bộc lộ những mâu thuẫn xã hội gay gắt và đang đi vào con đường bế tắc. Tình hình nước nhà dưới triều Nguyễn thật bi đát. Nông dân ngày càng bần cùng hóa. Ruộng đất hầu hết đều nằm trong tay triều đình, quan lại, địa chủ phong kiến. nông dân nhiều nơi không có một tấc đất cắm dùi. Tô, thuế, sưu, dịch hết sức nặng nề. Nạn đói và bệnh dịch hoành hành nhiều nơi. Hàng vạn người chết đói và chết vì bệnh dịch, nhiều nơi dân đói khổ quá phải bỏ làng kéo đi tha phương cầu thực. Phong trào nông dân chống lại triều đình nổ ra ở nhiều nơi, như Phan Bá Vành (1821) Lê Duy Lương và Lê Duy Hiển (1831), Lê Văn Khôi (1833), Nùng Văn Vân (1833), Lê Duy Cừ và Cao Bá Quát (1858), Lê Duy Minh và Trần Văn Tùng (1858), Nguyễn Văn Thịnh tức Cai Vàng (1862) v.v… Năm Qúy Tỵ (1833) Lê Văn Duyệt chết, Minh Mạng vốn ghét Lê Văn Duyệt vì Duyệt chủ trương tăng cường quyền hành địa phương của dinh Tổng trấn, vả lại Duyệt là một người không ủng hộ việc đưa Minh Mạng lên ngôi vua, nhưng Lê Văn Duyệt vốn thuộc hạng khai quốc công thần của Gia Long lại nắm binh quyền, uy thế rất lớn nên Minh Mạng khó trừng Trị ông ta. Khi Lê Văn Duyệt chết, bọn quan lại tay sai của Minh Mạng đến thay Duyệt như tổng đốc Nguyễn Văn Quế, bố chánh Bạch Xuân Nguyên đã dựng lên vụ án Lê Văn Duyệt có âm mưu khởi loạn. Lê Văn Duyệt bị truất hết chức vụ, xiềng mả, toàn bộ gia nhân bị hạ ngục, chức tổng trấn Gia Định thành bị bãi bỏ. Lê Văn Khôi con nuôi của Lê Văn Duyệt được sự ủng hộ của tù nhân, binh lính và nhân dân địa phương chống lại triều đình, chiếm thành Phiên An (Sài Gòn) bắt giết Nguyễn Văn Quế và Bạch Xuân Nguyên. Cuộc nổ dậy của Lê Văn Khôi ở Gia Định kéo dài đến năm 1835 thì bị triều đình nhà Nguyễn đàn áp hết sức dã man hàng ngàn bị chết và chôn chung vào một huyệt lớn mà triều đình Nguyễn gọi là “Mả Ngụy”. Khi cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi bùng nổ ở Gia Định, Nguyễn Đình Huy thân sinh của Nguyễn Đình Chiểu bỏ nhiệm sở trốn về Huế và bị triều đình cách chức. Sau đó ông tìm cách đưa Nguyễn Đình Chiểu ra Huế ở nhờ một người bạn thân để Nguyễn Đình Chiểu có điều kiện học hành, năm đó Nguyễn Đình Chiểu được 12 tuổi. Sau tám năm chăm chỉ học hành, năm 1840, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định. Tại trường thi Hương Gia Định khoa thi năm Quý Mão (1843), Nguyễn Đình Chiểu đỗ Tú Tài, năm ấy ông được 21 tuổi. Khi ấy một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông. Năm Bính Ngọ (1846) Nguyễn Đình Chiểu ra Huế học chờ này dự khoa thi Hội năm Kỷ Dậu (1849) tại kinh đô, nhưng chưa đến ngày thi thì ông nhận được tin mẹ mất. Gặp tin buồn đột ngột, Nguyễn Đình Chiểu quyết định bỏ thi cùng với người em trở về Nam chịu tang mẹ. Trên dường đi vì thương khóc và bệnh hoạn xảy ra dọc đường ông bị mù mắt. Trong thời gian bị bệnh, ông ngự tại nhà ông lang Trung tại Quảng Nam để dưỡng bệnh và cũng tại đây ông học được nghề thuốc. Năm ấy Nguyễn Đình Chiểu 27 tuổi. Bị tật nguyền, dở dang việc công danh đang độ tuổi thanh xuân, Nguyễn Đình Chiểu rất đau lòng về cảnh ngộ của mình. Tuy vậy ông không nản chí, con đường lập thân bằng khoa cử không còn hy vọng, ông quyết tâm đem sở học của mình làm những việc có ích cho đời, có ích lợi cho nhân dân. Sau khi mãn tang mẹ, Nguyễn Đình Chiểu mở trường dạy học ở Bình Vi (Gia Định), tiếp tục nghiên cứu nghề làm thuốc và bắt đầu sáng tác thơ văn. Trước đây ông đặt tên hiệu cho mình là Mạnh Trạch Phủ hay Trọng Phủ,sau khi bị mù lòa ông lấy biệt hiệu là Hối Trai (cái nhà tối). Từ khi gặp phải cảnh không may trở thành người tàn tật, đời riêng của ông lại thêm lắm nỗi đau buồn. Khi ông vừa đỗ Tú Tài ở Gia Định, một nhà phú hộ trong vùng hứa gả con gái cho ông, nhưng khi ông bị mù thì nhà kia bội ước. Ngoài 30 tuổi Nguyễn Đình Chiểu vẫn sống độc thân và tìm nguồn vui trong việc dạy dỗ môn sinh, thỉnh thoảng lại chữa bệnh giúp cho đồng bào. Một người học trò của Nguyễn Đình Chiểu là Lê Tăng Quýnh làng Thanh Ba, Cần Giuộc, rất mến phục và thông cảm sâu sắc với cảnh ngộ của thầy đã xin với gia đình gả em gái thứ năm là Lê Thị Điền cho người thầy học của mình. Đây là thời kỳ Nguyễn Đình Chiểu vừa dạy học vừa sáng tác truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng, một tác phẩm mang tính chất tự truyện của tác giả Trong lúc Nguyễn Đình Chiểu gặp phải nhiều tai biến thì đất nước ngày càng lâm vào cảnh rối ren. Năm 1858, giặc Pháp nổ súng đánh chiếm cửa Hàn (Đà Nẵng) mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Ngày 17 – 2 1859, Pháp đưa chiến thuyền theo của biển Cần Giờ vào đánh chiếm thành Gia Định. Từ đây Nguyễn Đình Chiểu cùng chung số phận với nhân dân trong hoàn cảnh đất nước quê hương nhuộm màu khói lửa. Giặc Pháp chiếm thành Gia Đinh, Nguyễn Đình Chiểu về quê cùng vợ tại làng Thanh Ba, Cần Giuộc ông đã chứng kiến tội ác dã man của giặc và cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của nghĩa quân ở các vùng xung quanh và chính tại nơi ông cư ngụ. Dù đã mù lòa, nhưng Nguyễn Đình Chiểu hết sức gắn bó với nghĩa quân yêu nước, ông vẫn thường xuyên thu từ liên lạc với những người lãnh đạo nghĩa quân. Em út của ông là Nguyễn Đình Huân chiến đấu trong hang ngũ nghĩa quân của Đốc binh là hoạt động trong vùng Biên Hòa, Gia Định. Thời gian ở Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành sáng tác truyện Dương Từ – Hà Mậu, trong đó ông phê phán những điều vô lý của đạo Phật và đạo Thiên chúa, đề cao đạo lý làm người của đạo Nho. Cũng chính trong thời gian này ông dã viết tác phẩm nổi tiếng “Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc”. Ngày 14 – 12 – 1861, quân Pháp đánh chiếm Cần Giuộc, Tân An, Gò Công. Ba tỉnh miền Đông lần lượt rơi vào tay giặc Tình hình đất nước ngày càng một đen tối, triều đình nhà Nguyễn nhu nhược ươn hèn đã ký hiệp ước năm 1862 nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Bộ (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) và đảo Côn Lôn cho Pháp, thừa nhận quyền tự do thông thương, tự do truyền đạo và bồi thường chiến phí 20 triệu phơ-răng trong vòng 10 năm. Khắp nơi trong vùng giặc chiếm, sĩ phu yêu nước kéo nhau tị địa về ba tỉnh miền Tây lúc bấy giờ còn dưới sự kiểm soát của triều đình. Nguyễn Đình Chiểu và gia quyến phải rời Cần Giuộc về Ba Tri và sống ở đây cho đến cuối đời. Các lãnh tụ nghĩa quân như Trương Định và nhiều người khác đã chống lại lệnh giải binh của triều đình, tự động dựng cờ chống Pháp, tổ chức duy trì và mở rộng cuộc kháng chiến ở Gia Định – Gò Công. Trương Định theo nguyện vọng của nhân dân không tuân lệnh điều động đi nơi khác của triều đình, ở lại Gò Công cùng vơi nhân dân đánh giặc, được nhân dân suy ông là “Bình Tây Đại Nguyên Soái”. Căn cứ của Trương Định đặt tại Gò Công, nhưng tầm hoạt động của ông rất rộng. Từ Gò Công, Trương Định liên kết với nghĩa quân của Đỗ Trình Thoại ở Bình Hòa, Phan Văn Đạt và Lê Cao Dõng ở Tân An, Nguyễn Văn Lịch tức Nguyễn Trung Trực ở Nhật Tảo, Phủ cậu, Trần Xuân Hòa ở Thuộc Nhiêu, Mỹ Tho… và đã trở thành người lãnh đạo kiệt xuất của phong trào.
Nguyễn Đình Chiểu không trực tiếp ham gia đánh giặc, nhưng ông hoàn toàn tán thành hành động chống lại “thiên tử chiếu” của Trương Định và các sĩ phu chống Pháp. Ông thường có thư từ liên hệ với Trương Định và một số lãnh tụ nghĩa quân. Trương Định rất mến phục ông, thường gửi thư hỏi ý kiến về việc dân việc nước. Trong thời gian về Ba Tri, Nguyễn Đình Chiểu đã cùng với Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt sáng tác thơ văn phê phán sự nhu nhược của triều đình và bọn quan lại bất tài, vạch mặt xấu xa của bon nho sĩ đầu hang giặc như Tôn Thọ Tường. Phong trào tự động kháng chiến của nhân dân mặc dù rất oanh liệt, nhưng không ngang sức với kẻ thù, rốt cuộc đều chịu thất bại rất đau đớn. Năm 1864, Trương Định bị phản bội, trong chiến đấu ông bị thương nặng và tự sát không để rơi vào tay địch, nghĩa quân lần lượt tan rã. Năm 1867, giặc Pháp chiếm đóng luôn ba tỉnh miền Tây Nam Bộ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên), Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử. Phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân tạm lắng một lúc rồi lại bùng lên. Phan Liêm và Phan Tôn nổ lên ở bến Tre. Nguyễn Hữu Huân sau 7 năm bị đày ở nước ngoài trở về lại khởi nghĩa ở Mỹ Tho, Nguyễn Trung Trực khởi binh ở Rạch Giá. An hem Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự hoạt động ở ở vùng Cần Thơ, Bạc Liêu, Phan Tòng ở Ba Tri. Phong trào “đạo lành” của Trần Văn Thành ở Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc. Nguyễn Văn Bường và Phạm Văn Hớn khởi nghĩa ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn. Tuy nhiên, những phong trào cuối cùng cũng bị giặc Pháp đàn áp tan rã. Tiếp theo, năm 1873, thành Hà Nội thất thủ lần thứ nhất. Nguyễn Tri Phương trúng đạn rồi tuyệt thực chết. Năm 1882 Hà Nội thất thủ lần thứ hai, Hoàng Diệu tuẫn tiết. Năm 1885, giặc Pháp chiếm kinh thành Huế, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị xuống chiếu kêu gọi Cần Vương. Năm 1888, Hàm Nghi bị bắt và bị đi đày đi An-giê-ri. Niềm hy vọng của mọi người và của Nguyễn Đình Chiểu về công cuộc chống Pháp giữ gìn đất nước đến đây đành tắt hẳn. Cuộc chiến đấu chống quân Pháp xâm lược của nghĩa quân tuy phải chịu thất bại vì sức yếu, thế cô, nhưng gương hy sinh anh dũng của nhân dân và các lãnh tụ nghĩa quân vẫn chói ngời trong tâm trí mọi người. Hồ Huân Nghiệp ngâm thơ trước khi chịu chết. Thủ Khoa Huân khi giặc đưa ra xử chém. Thái độ rất bình tĩnh ung dung. Phan Văn Đạt chửi mắng kẻ thù trước khi ngả xuống. Nguyễn Trung Trực trước giờ bị hành hình đã nói với kẻ thù:
“Bao giờ đất này hết cỏ thì mới hết người Nam đánh Tây”. Lịch sử đau thương nhưng oanh liệt của dân tộc, tấm gương hy sinh anh dũng của những anh hùng liệt sĩ có tên và không tên đã làm cho Nguyễn Đình Chiểu cảm xúc hết sức mãnh liệt, ngòi bút yêu nước của ông đã phản ánh những tấm gương ấy dưới nhiều thể loại văn học khác nhau một cách đậm đà, sâu sắc, rung động lòng người. Văn thơ yêu nước là một mảng sáng tác lớn giàu tính chiến đấu, đỉnh cao trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác văn học của nhà thơ lớn Nguyễn Đình Chiểu. Những ngày sống ở Ba Tri là những ngày đau buồn nhất của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, những người bạn đồng tâm, đồng chí phần lớn đã hy sinh, số còn lại tị địa ra Bình Thuận. Ông sống âm thầm đau khổ vừa dạy học vừa làm thuốc giúp dân. Thời gian này ông đem hết tâm huyết gửi gắm vào các bài văn tế, thơ điếu đầy bi tráng thương khóc những người vì nước quên mình và sáng tác truyện “Ngư tiều y thuật vấn đáp” có nôi dung vừa dạy thuốc vừa dạy người, trong đó nổi bật lên tâm hồn và ý chí thương dân, yêu nước, khí phách kiên tung bất khuất của chính bản thân tác giả. Bọn thực dân Pháp rất xảo quyệt, chúng biết Nguyễn Đình Chiểu có uy tín lớn trong dân nên tìm cách mua chuộc ông. Tên Misen Pông sông (Michel Ponchon), Tỉnh trưởng Bến Tre mấy lần đến gặp Nguyễn Đình Chiểu. Hắn giả vờ xin ông nhuận sắc cho tập thơ Lục Vân Tiên mà hắn cho là một tác phẩm rất đáng trân trọng. Hắn tỏ ý muốn cấp tiền cho ông lúc tuổi già, lần cuối cùng hắn đặt vấn đề trả lại đất đai cũ nơi quê nhà của ông ở Gia Định mà chúng đã chiếm đoạt.
Những lần gặp gỡ và đối diện với tên Pông sông, Nguyễn Đình Chiểu đã tỏ thái độ dứt khoát, khảng khái từ chối mọi đề nghị của kẻ thù. Ông đã thẳng thừng trả lời Pông sông :
“Nước chung đã mất, đất riêng còn có được sao?”.
Cuối cùng Pôngsông hỏi ông muốn gì? Ông nói: Muốn được làm lễ tế nghĩa quân lục tỉnh trận vong, những người vì nước quên mình mà ông rất kính phục.
Được viên Tỉnh trưởng chấp thuận, tại chợ Đập (chợ Ba Tri ngày nay), Nguyễn Đình Chiểu đã cùng với nhân dân công khai tổ chức trọng thể lễ tế nghĩa sĩ lục tỉnh trận vong. Bài “ Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh” do ông sáng tác và đọc tại buổi lễ làm cho hàng ngàn người có mặt xúc động không cầm được nước mắt. Buổi lễ đã gây ấn tượng sâu sắc trong nhân dân về “Khúc ca của những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang” và đã trở thành sự kiện có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nhân dân ở nhiều nơi trong vùng kể từ khi giặc Pháp hoàn thành việc chiếm đóng Nam Kỳ lục tỉnh. Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn rầu về cảnh vợ mất, nước mất nhà tan đã bấy lâu, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng. Trong những ngày cuối cùng, nhà thơ sống trong cảnh nghèo nàn thanh bạch với sự yêu thương đùm bọc của nhân dân. Ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý, (tức là ngày 3-7-1888),
Nguyễn Đình Chiểu qua đời trong một căn nhà nhỏ tại làng An Bình Đông (gần chợ Ba Tri, thuộc Trị trấn Ba Tri ngày nay), thọ 66 tuổi. Nhân dân, bạn bè, học trò và con cháu đưa đám ma ông rất đông, khăn tang trắng cả cánh đồng An Đức nơi ông yên nghỉ cuối cùng cách chợ Ba Tri 1 cây số.
Từ khi Nguyễn Đình Chiểu mất cho đến nay, hàng năm đến ngày giỗ ông, nhân dân trong vùng Ba Tri và nhân sĩ trí thức có tinh thần dân tộc yêu nước ở khắp nơi đều tổ chức kỷ niệm ông với nhiều hình thức tưởng nhớ, đậm đà lòng yêu mến, một con người tiêu biểu cho lòng yêu nước và đạo lý làm người Việt Nam, cuộc đời tuy chịu nhiều đau khổ nhưng tiết tháo rất thanh cao. Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với vận mệnh của đất nước và nhân dân trong cả một giai đoạn lịch sử bi tráng của dân tộc. Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu phản ánh trung thành biến cố của cả một thời dại, tiêu biểu cho tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân ta trong nửa cuối thế kỷ 19. Nhà thơ lớn của dân tộc.
Nguyễn Đình Chiểu, xứng đáng là ngọn cờ đầu của dòng văn học yêu nước Việt Nam cận đại
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!