II – CÁCH VIẾT THEO MẪU LATINH CÓ ĐỐI CHIẾU BẢN VĂN CỦA CÁC TÁC GIẢ KHÁC.
1 – HÌNH THÀNH CHỮ VIẾT TÂY NGUYÊN.
GPKONTUM (24.06.2011) KONYUM. Tiếng nói dân tộc trên Tây Nguyên đã được nghiên cứu và viết thành sách với mẫu tự Latinh của cha Dourisboure (1825 – 1890): quyển từ điển thời danh “Vocabularium apud barbaros Bahnars” năm 1870, dày 268 trang, cỡ sách 20×26 cm gồm 3 thứ tiếng: Bahnar-Việt nam- Pháp, và tự điển “Dictionnaire bahnar-francais”, in tại Hồng Kong năm 1889 cũng đã định hình mẫu tự và một số phiên âm tiếng Bahnar ra chữ viết. Cuốn tự điển này là kết quả quá trình ổn định chữ viết trong một thời gian dài của các vị thừa sai đầu tiên trên vùng Tây nguyên. Tuy nhiên dựa vào tiếng nói, cách phát âm của người dân tùy từng vùng và các vị thừa sai tiếp thu tiếng nói đó mỗi người một khác, nên chữ viết có phần không đồng nhất. Xin xem trong phụ lục quyển “Les Sauvages Ba-hnars” (tựa đề tiếng Việt là Dân Làng Hồ) của linh mục Dourisboure, năm 1875, có ghi chú những cách viết hơi khác nhau, như Bannar – Ba-Hnar; Cédans – Se-Dang; Reungao – Rơ-Ngao; Giarai – Ja-Rai; Beiaou – Bo-jaou; Ca (làng) – Kon; Keusam – Ko-Xam, …). Ngay trong quyển “Les Sauvages Ba-hnars” vừa trưng dẫn, địa danh “Kon-Tum” có lúc là “Kon-Tum” và sau đó viết là “Kon-Tom” [1].
Tinh thần làm việc chung, cuối cùng cũng đã đạt đến thỏa thuận của các vị thừa sai trong giai đoạn hình thành chữ viết cho hậu thế và chấp nhận có một số biến cách sau này.
2 – THỐNG NHẤT PHƯƠNG THỨC PHIÊN ÂM cho các tiếng dân tộc trên vùng Tây nguyên.
Việc hình thành cách viết tiếng nói của các dân tộc trên vùng Tây Nguyên này thường đi liền với công tác truyền giáo, nên có một số khác biệt tùy nơi được truyền đạo và cũng còn lệ thuộc nhận thức các nguyên tắc xây dựng chữ viết. Cha Cassaigne (1895-1973) có phổ biến quyển “Petit manuel de conversation courante en langue moi: koho et châu soré”, à l’usages des planteurs, chasseurs, touristes: région Djiring- Dalat, in năm 1930, hay cuốn tự điển tiếng Stieng của vị thừa sai Gioan Azémar (1834-1895) xuất bản năm 1886 và tái xuất bản những năm sau, đòi hỏi có một sự thống nhất mẫu tự và cách viết cho các dân tộc thiểu số trong vùng. Do đó, vào giữa thập niên 30 thế kỷ XX, một Ủy Ban đặc biệt gồm 9 thành viên trong đó có linh mục J.B. DÉCROUILLE TÔN, thừa sai KONTUM và thừa sai CASSAIGNE thuộc Hội thừa sai tại Sàigòn đã họp tại ĐÀLẠT bàn thảo về các chữ cái, nguyên tắc xây dựng chữ viết như thế nào để thống nhất cách phiên âm các tiếng bản địa[2]. Nhờ những nguyên tắc và phương pháp đã được Hội nghị này thảo luận, Quan Toàn quyền Đông Dương ấn dịnh các chữ cái, phương thức ký hiệu, … vào ngày 2-12-1935, nên chữ viết của các dân tộc trên toàn vùng có phần thống nhất. Với quá trình hình thành chữ viết, nhất là tiếng Bahnar được tiếp tục san định lại, qua những tự điển của linh mục thừa sai Alberty cùng với ông Guilleminet hoặc “Conversation française – Bahnar” của cha Alberty và ông Pichardie, Sàigòn 1944, v.v chữ viết tiếng Bahnar cũng như cách viết tiếng Jrai sau này của Jacques Dournes tạm ổn định cho việc dạy văn hóa và phổ biến sách mục vụ dù có một vài ứng dụng khác do phương tiện máy đánh chữ bị hạn chế.
3 – MẪU TỰ THEO VĂN BẢN TẬP GIÁO LÝ “CATÉCHISME EN JRAI” .
Văn bản tập giáo lý này phần lớn theo mẫu tự latinh đã được các vị đi trước san định. Tuy nhiên các mẫu tự latinh này không thuần túy phát âm theo kiểu âu châu, mà còn gồm những nguyên âm với dấu kèm theo như trong chữ viết phổ thông [3], ví dụ: a, â, ă ; o, ǒ, ô ; ơ, u, ŭ, ū, ư; i, ĭ, e, ě và đặc biệt còn bồi thêm trên những chữ có dấu một dấu khác nữa như dấu ngạch ngang ngắn ( ˉ ) hay dấu ă ( ˘ ) chồng lên trên.
Những dấu hiệu thêm vào nhằm mục đích ấn định cách phát âm theo giọng và điểm nhấn đặc thù của riêng từng tiếng dân tộc đòi hỏi.
Để minh họa cách viết trong tập tài liệu giáo lý của cha Nicolas, chúng tôi xin trưng dẫn một vài trang viết của ngài, đặc biệt trong phần nội dung tập giáo lý phần III sau đây.
III- NỘI DUNG TẬP GIÁO LÝ “CATÉCHISME EN JRAI” .
Về phần nội dung Tập Giáo lý “CATÉCHISME EN JRAI” của cha Nicolas, trong bài giới thiệu ngắn gọn này, chúng tôi không đi sâu vào nội dung, mà chỉ tóm lược những chủ đề chính, đồng thời kèm theo một số trang giáo lý của cha để minh hoạ và dễ nhận diện được cách viết tiếng Jrai trong tập tài liệu giáo lý này sử dụng. Chúng tôi sẽ có chuyên đề về nội dung tập giáo lý này vào dịp khác: dịch toàn bộ bài giáo lý tiếng Jrai qua tiếng phổ thông và có một vài nhận định về cách xử dụng tiếng Jrai để diễn tả ý niệm thần học hoặc tín lý sao cho thích hợp tầm hiểu của người tín hữu được các linh mục thừa sai phục vụ.
1 – Tập tài liệu này soạn thảo tại Habâu – Tiên Sơn nơi linh mục Nicolas đến truyền giáo từ năm 1905 đến năm 1908. Trong kẹp hồ sơ này, soạn thảo phần cuối tài liệu có một ghi chú ngày rửa tội của một người kinh tại Tiên Sơn vào năm 1915. Do đó, chúng tôi thiết nghĩ tài liệu của cha Nicolas tại Habâu-Tiên Sơn vào thời ký đầu thời gian mục vụ của ngài, trên 100 năm.
2- Để cho tiện việc trình bày, chúng tôi xin kèm theo đây một số bài giáo lý được cha soạn trong quyển vở học trò. Trước nhất, bìa kẹp tài liệu; thứ đến số bài giáo lý cơ bản; kinh thông thường ngày và phần Bí tích.
+ BÌA KẸP TÀI LIỆU:
Và trong từng PHẦN được chia ra nhiều CHAL [ĐoẠN] có đánh 1, 2, 3, . . .
Chúng ta có thể thấy được tài liệu giáo lý có dàn bài tổng quát:
1/ Phần: GIÁO LÝ CƠ BẢN (đánh số từ Đoạn 1 ),
2/ Phần KINH
3/ Đặc biệt cho Phần BÍ TÍCH
Và một số tờ đang biên soạn chưa phân loại được.
1/ ĐẦU TIÊN LÀ PHẦN GIÁO LÝ CƠ BẢN
gần 100 trang giấy vở học sinh.
Chúng tôi xin đưa ra một số trang đầu của tập giáo lý này để giới thiệu khái quát
+ CHAL 1 [ĐOẠN 1]:
2/ PHẦN KINH (Gồm vài trang).
3/ PHẦN BÍ TÍCH
(gồm 7 trang học sinh)
Kết luận:
Chúng tôi xin thưa cùng quí vị là tập tài liệu “CATÉCHISME EN JRAI” của linh mục Gabriel Maria Gioan Baotixita NICOLAS, MEP
Nhà Truyền Giáo Tây Nguyên
là mộtbản văn đang soạn thảo, nên nhiều bài chưa có thể phân loại được. Tuy nhiên, xuyên qua đó cũng không nói quá, khi khẳng định các vị thừa sai ưu tiên hàng dầu cho việc soạn giáo lý bằng tiếng bản địa, trong trường hợp này là tiếng Jrai. Mặc khác, từ ngữ để diển tả về Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần được cha Nicolas dùng bằng những cụm từ “Yāng Amā, Yāng Ană pāng Yāng Xipirito Santo”, “Yāng Rơngĭt” (Chúa Trời). Tuy nhiên, cách viết “Yāng”, trên chữ a có dấu ngạch ngang, nhưng riêng Yāng Ană thì chữ Ană là dấu ă. Qua đó, vị linh mục cũng đã có lối viết cách sáng tạo riêng cho mình. Chúng tôi xin gác lại khía cạnh này cho chuyên đề sau, hy vọng phần nào sẽ bổ túc cho những nghiên cứu về văn học và ngữ học qua tài liệu cổ được viết bằng chữ tiếng Jrai trên 100 năm quý hiếm này. Nhưng nhìn về sứ vụ của người linh mục, vị thừa sai Nicolas trước nhất sống và chu toàn căn tính linh mục trên vùng truyền giáo, phục vụ Lời Chúa, loan báo Tin Mừng cho anh em dân tộc. Chính vì thế ngài đã đặt bàn tay mình trong bàn tay hiệp thông và yêu thương của anh em linh mục đồng sự khi trút hơi thở cuối cùng trong an bình tại Nha Trang vào ngày 09 tháng 01 năm 1947, cách đây 64 năm vậy.
Phương Quý, 24.06.2011,
Lễ Thánh Gioan Baotixita
LM. Gioakim NGUYỄN HOÀNG SƠN