Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định – Vị nguyên soái của dân
Trong dòng chảy lịch sử khoa bảng Việt Nam, dòng họ Trương là một dòng họ hiếu học, có nhiều đóng góp cho đất nước. Nếu như ở con đường khoa bảng, họ Trương có Tiến sĩ Trương Công Giai, là vị Tiến sĩ trẻ tuổi nhất trong lịch sử khoa bảng thời phong kiến, hay Tiến sĩ Trương Đăng Quế, người khai khoa đất Quảng Ngãi. Thì ở ngạch tướng võ có Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định, ông là võ quan triều Nguyễn và là thủ lĩnh phong trào kháng Pháp ở Nam Bộ giai đoạn nửa sau thế kỷ 19.
Trương Định sinh năm 1820, tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi). Ông còn có tên là Trương Công Định hoặc Trương Trường Định, là hậu duệ dòng họ Trương khai khoa vùng Quảng Ngãi xưa. Cha ông là Lãnh binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ uý ở Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị.
Ngược thời gian tìm về lịch sử, theo ghi chép của các sử gia dưới triều Nguyễn, Trương Định sinh ra và lớn lên trong một gia đình danh tiếng, lại sống tại vùng đất hiếu học, nên mặc dù không muốn quan tâm theo con đường cử nghiệp nhưng Trương Định vẫn được giáo dục bài bản, thông hiểu binh thư và võ nghệ, đặc biệt là tài bắn.
Thời vua Thiệu Trị, vào năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam và trở thành bậc tiền hiền khai mở vùng đất Tân An – Định Tường. Sau khi cha mất, ông ở lại vùng Gò Công và kết hôn với bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện Tân Hòa (Gò Công Đông ngày nay). Năm 1854, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của triều đình Huế do Nguyễn Tri Phương thi hành, ông đem hết tài sản đi chiêu mộ dân nghèo vùng Quảng Nam – Quảng Ngãi vào khai hoang lập đồn điền ở Gia Thuận, thuộc huyện Gò Công Đông ngày nay và được bổ chức Phó Quản Cơ của đồn điền. Thực ra, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Trương Định đã sớm mang trong mình tư tưởng kháng Pháp, nên việc quyết định ở lại chiêu mộ quân sĩ, lập đồn điền còn mang nhiều ý nghĩa, trong đó quan trọng nhất là chuẩn bị lực lượng để kháng Pháp.
Cùng với việc tập hợp lực lượng, xây dựng các chiến lược chống lại quân Pháp, Trương Định còn tiến hành nhiều hoạt động khác để xây dựng nguồn lực lâu dài. Trong đó, việc cưới người vợ thứ 2 vừa là cơ duyên, vừa là thêm động lực chống lại quân xâm lược. Bởi người vợ này của ông không phải ai khác mà chính là bà Trần Thị Sanh, là chị em con cô con cậu với bà Từ Dũ Thái Hậu, mẹ của vua Tự Đức. Giới nghiên cứu sử học đánh giá đây là cuộc hôn nhân đặc biệt xứ Nam Kỳ bởi nó liên quan đến vận mệnh của đất nước. Bà vợ này là 1 trong 4 người giàu nhất vùng Gò Công lúc đó, thêm một sự hậu thuẫn để Trương Định kháng Pháp.
Tháng 4/1861, thực dân Pháp chiếm thành Định Tường, tháng 11/1861 chiếm thành Biên Hòa và đến tháng 3/1862, giặc Pháp tấn công chiếm thành Vĩnh Long. Triều đình ký hòa ước “Nhâm Tuất” vào ngày 5/6/1862 cắt 3 tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định và Định Tường cho Pháp. Tiếp đó, triều đình ra lệnh cho Trương Định bãi binh, phong làm Lãnh binh An Hà, buộc phải bãi binh ở Tân Hoà và gấp rút nhận chức mới ở An Giang.
Nhưng lòng dân và nghĩa quân không chịu, trong lúc đang lưỡng lự giữa ý dân và lệnh vua chưa biết ngã về đâu thì Trương Định nhận được thư của nghĩa hào huyện Tân Long (Chợ Lớn), tỏ ý muốn cử ông làm chủ soái 3 tỉnh để giết giặc. Cảm kích sự tín nhiệm của những người yêu nước và nhân dân, ông đã khước từ lệnh của triều đình và nhận danh hiệu “Bình Tây Đại Nguyên Soái” do nhân dân phong, tiếp tục cuộc chiến đấu chống giặc Pháp.
Từ đó, Trương Định lấy Gò Công làm địa phận chính để mở các trận tấn công Pháp, lấy biệt danh căn cứ là “Đám lá tối trời” và xây dựng binh pháp riêng của nghĩa quân để kháng Pháp. Một mặt, ông xây dựng lại lực lượng, mặt khác ông kêu gọi các sĩ phu yêu nước hãy đứng lên góp công góp sức, hiến kế đánh giặc, đó là lời hịch tháng 8/1864. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Trương Định, khắp nơi một làn sóng kháng chiến lại nổi lên ở Mỹ Tho, Tân An, Gò Công, Cần Giuộc, Chợ lớn và vùng giáp ranh Biên Hoà. Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường, Hội Khoa học Lịch sử Tiền Giang phân tích, sở dĩ Trương Định tập hợp được lực lượng đông đảo như vậy là do ông đã dành được lòng tin của nhân dân và có sự yểm trợ ngầm từ phía triều đình.
Sau hàng loạt cuộc nổi dậy của nghĩa quân của Trương Định mở rộng từ Gò Công đến Gia Định, lan sang nhiều địa phương khác như Bà Rịa, Tây Ninh, quân Pháp tập trung lực lượng đàn áp và ra sức truy tìm để diệt ông. Đêm 19/8/1864, dò biết nơi ở của Trương Định, tên phản bội Huỳnh Công Tấn cho quân bao vây đột nhập vào nhà. Trương Định và những nghĩa quân của ông chiến đấu chống trả quyết liệt, diệt được một số quân địch, nhưng lại bị thương nặng. Biết mình không sống được và quyết không để rơi vào tay giặc, Trương Định đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết người anh hùng, năm ấy ông tròn 44 tuổi.
GS Trương Minh Nhật, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, nhà nghiên cứu cũng là hậu duệ dòng họ Trương cho rằng, cuộc khởi nghĩa của Trương Định chỉ kéo dài 5 năm nhưng đã để lại nhiều ý nghĩa: “Thứ nhất là tập hợp được lực lượng nhân dân yêu nước đánh Pháp. Thứ 2 là thể hiện tinh thần độc lập tự chủ trong việc đề ra đường lối kháng Pháp. Thứ 3, cuộc khởi nghĩa của Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất vùng Nam Bộ trong giai đoạn đầu của phong trào kháng Pháp” – GS Trương Minh Nhật nhấn mạnh.
Sau khi Trương Định mất, bà Trần Thị Sanh là người vợ thứ của ông và nhân dân mang ông về an táng rất trọng thể, tại một địa điểm nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Năm 1964, ngôi mộ và đền thờ ông được tu bổ khang trang và giữ nguyên dáng dấp đến ngày nay. Còn ở tại quê nhà phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi, năm 1871 vua Tự Đức sai truy tặng ông phẩm hàm, và cho lập đền thờ ông tại Tư Cung, nơi ông sinh trưởng và giao cho các quan tỉnh Quảng Ngãi tế tự hàng năm.
Tuy sự nghiệp cứu nước chưa thành, nhưng anh hùng dân tộc Trương Định đã để lại tấm gương sáng về lòng yêu nước, thương dân và tinh thần kiên trung, bất khuất. Tinh thần Trương Định và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo mãi mãi lưu danh cùng non sông đất nước.
Biết ơn vị thủ lĩnh “Đám lá tối trời”, anh hùng Trương Định, hàng năm, đến ngày giỗ ông (20 tháng 8) nhân dân vùng Gò Công nhà nào cũng lập bàn thờ ngoài trời và làm lễ tại đình. Lễ giỗ ông ngày nay trở thành ngày hội của nhân dân trong vùng, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và tấm lòng thành kính của con cháu hậu duệ đối với vị nhân sỹ nặng lòng yêu nước, thương dân, có công lao to lớn trong sự nhiệp chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Mời nghe âm thanh tại đây:
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!