Ca dao là gì? Chùm ca dao là gì? Đặc trưng, phân loại và ví dụ?
Ca dao là một phần không thể thiếu trong kho tàng văn học Việt Nam. Những bài ca dao luôn thân tuộc, gắn liền với tuổi thơ và quá trình lớn lên của mỗi người con đất Việt. Vậy ca dao là gì? Chùm ca dao là gì? Đặc trưng, phân loại và ví dụ về ca sao? Nếu bạn cũng đang tìm câu trả lời cho những vấn đề này thì hãy theo dõi bài viết dưới đây của chúng tôi.
1. Ca dao là gì?
Sách giao khoa Ngữ văn 10, tập 1, trang 17 có đưa ra định nghĩa, ca dao là những “lời thơ trữ tình dân gian, thường có sự kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người”.
Xét về nghĩa thì ca dao là từ Hán Việt: “Ca” trong ca từ, ca hát, nghĩa là một bài hát có vần có điệu; “Dao” nghĩa là một câu hát ngắn, ngẫu hứng và không có giai điệu linh hoạt. Ca dao có nguồn gốc từ cuộc sống dân gian đời thường.
Ca dao là một trong các dạng của thơ ca Việt Nam, nó không có cấu trúc nhất định như thể thơ lục bát hay thất ngôn bát cú đường luật. Nhưng để dễ nhớ thì ông cha ta thường sử dụng thể thơ lục bát, tuy nhiên sẽ không cần phải để ý tới nhịp điệu khi sử dụng.
2. Chùm ca dao là gì?
Chùm ca dao là tập hợp những bài ca dao về một chủ đề nào đó, chúng thường có chung một cách mở đầu.
Ví dụ: Chùm ca dao “Thân em…”, có các bài ca dao như:
Thân em như dải lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.
Thân em như hạt mưa sa.
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Chùm ca dao “Thân em…” nói về thân phận bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam xưa trong xã hội phong kiến.
3. Các đặc trưng của ca dao:
3.1. Về nội dung:
Về nội dung, các bài ca dao thường diễn tả đời sống tinh thần, tư tưởng và tình cảm của người dân trong các mối quan hệ như: tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương, gia đình, đất nước,… Ngoài ra, một số bài ca dao còn phản ánh lịch sử và các phong tục tập quán truyền thống của người dân Việt.
Chủ đề chính của ca dao thường là những tiếng hát than thân, lời ca yêu thương tình nghĩa được cất lên từ cuộc đời đầy cay đắng, xót xa nhưng đằm thắm ân tình của người dân Việt Nam.
3.2. Về nghệ thuật:
– Ca dao là những lời thơ ngắn gọn; được viết bằng thể thơ lục bát hoặc lục bát biến thể nên rất dễ ghi nhớ.
– Ngôn ngữ dùng trong ca dao giản dị, quen thuộc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày.
– Ca dao giàu hình ảnh ẩn dụ, so sánh.
– Cách diễn đạt ca dao mang đậm sắc thái dân gian.
– Cấu trúc ca dao thường được chia thành 3 loại bao gồm: Ngẫu nhiên không có chủ đề nhất định; cấu trúc theo lối phô diễn về thiên nhiên và cấu trúc theo lối đối thoại.
4. Phân loại ca dao? Ví dụ?
Kho tàng ca dao Việt Nam rất đa dạng, phong phú và chia thành nhiều loại khác nhau. Cụ thể như sau:
4.1. Đồng dao:
Đồng dao là những bài ca dao dân gian truyền miệng gắn liền với công việc và các trò chơi của trẻ em.
Ví dụ:
Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa đứt cương
Ba vương ngũ đế
Bắt để đi tìm….
4.2. Ca dao lao động:
Ca dao lao động được sáng tác trong quá trình lao động sản xuất của nhân dân; đúc kết nhiều kinh nghiệm sống của cha ông ta.
Ví dụ:
Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.
4.3. Ca dao ru con:
– Hầu hết những bài hát ru con ngày nay đều là những câu ca dao có sẵn.
Ví dụ:
Ru con, con ngủ cho say
Đểu dệt vải cho thầy nhuộm nâu.
4.4. Ca dao về các lễ nghi và phong tục:
Ca dao về các lễ nghi và phong tục là ca dao thể hiện hình thức sinh hoạt tôn giáo của người dân.
Ví dụ:
Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.
4.5. Ca dao hài hước, bông đùa, trào phúng:
Những câu ca dao dí dỏm, hài hước, bông đùa thể hiện tinh thần lạc quan, vượt qua mọi khó khăn của cuộc sống. Ngược lại, những câu ca dao châm biếm, trào phúng sẽ lên án, phê phán thói hư, tật xấu của con người.
Ví dụ:
Công anh chăn nghé đã lâu,
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày.
4.6. Ca dao trữ tình:
Ca dao trữ tình là loại ca dao do cảm xúc tạo thành, chủ yếu được dùng để bộc lộ tâm trạng, tình cảm, ký thác tâm sự của chủ thể. Chủ đề của ca dao trữ tình khá đa dạng, từ tình cảm gia đình, quê hương đến tình yêu đôi lứa.
Ví dụ:
Ai làm cái nón quai thau
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh.
4.7. Ca dao than thân:
Ca dao than thân là tiếng nói được cất lên từ những kiếp người đau khổ, cùng cực, lầm than trong xã hội cũ. Họ phải chịu bao đắng cay, áp bức, tủi nhục, uất ức vì “thấp cổ bé họng” trong xã hội.
Ví dụ:
Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót lòng này khế ơi!
Mặt trăng sánh với mặt trời,
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng
Mình ơi có nhớ ta chăng?
Ta như sao vượt chờ trăng giữa trời!
5. Phân tích một loại ca dao mà em yêu thích:
Ca dao Việt Nam thường diễn tả đời sống tư tưởng, tình cảm muôn màu muôn vẻ của người lao động. Sống dưới xã hội cũ, người lao động Việt Nam chịu không ít đắng cay, tủi nhục, từ đó mà các bài ca dao than thân bắt đầu xuất hiện. Trong đó phải kể đến một số bài được mở đầu bằng từ “Thân em”, một lối diễn đạt công thức mang đậm sắc thái dân gian.
Những bài ca dao mở đầu bằng từ Thân em, trước hết, đều là lời than thân của người phụ nữ.
Than vì sự cực khổ trong lao động:
Thân em tội nghiệp vì đâu, Ngày ngày em chổng phao câu lên trời.
Than cho số kiếp của một kẻ lẽ mọn:
Thân em làm lẽ chẳng hề, Có như chính thất mà lê giữa giường.
Hay vì một nỗi oan uổng:
Thân em như giấy lụa tờ Chớ nghi mà tội, chớ ngờ mà oan.
Nhưng phổ biến nhất trong những lời than thân đó là lời than vì duyên phận bị phụ thuộc, không được chủ động trong tình yêu:
Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Xin được dẫn ra đây 5 bài ca dao khác thuộc loại này để thấy được những nét chung và riêng so với bài ca dao vừa nêu ở trên:
– Thân em như hạt mưa rào Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
– Thân em như miếng cau khô Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày.
– Thân em như giếng giữa đàng Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
– Thân em như trái bần trôi Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
– Thân em như quả xoài trên cây Gió đông gió tây, gió nam gió bắc Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành Một mai rụng xuống biết vào tay ai?
Tất cả các bài ca dao trên đều bắt đầu bằng từ “Thân em” nhằm diễn tả thân phận, cuộc đời bị phụ thuộc, không được quyền quyết định cuộc sống hôn nhân, tình yêu của người phụ nữ xưa. Từ đó, gợi cho người đọc, người nghe sự đau xót, đồng cảm sâu sắc về thân phận nhỏ bé, yếu ớt, cay đắng của những người phụ nữ dưới chế độ xưa.
Sau từ “Thân em” là từ “như” dùng để so sánh và các đối tượng được đem ra so sánh là: tấm lụa đào, hạt mưa, miếng cau khô, giếng giữa đàng, quả bần trôi trên sông, quả xoài trên cây. Đây đều là những vật gần gũi, quen thuộc và có những nét tương đồng độc đáo với thân phận của người con gái trong xã hội cũ. Cách đem các sự vật ấy ra so sánh khiến cho đối tượng được so sánh (người phụ nữ) hiện lên một cách rõ ràng, đồng thời cũng làm nổi bật được thân phận không ra gì của họ. Miếng cau khô, hạt mưa rơi, quả xoài… vốn là những thứ không có mấy giá trị, thậm chí được coi là đồ bỏ đi: quả bần trôi trên sông.
So với các hình ảnh so sánh trên thì có lẽ tấm lụa đào là có giá trị hơn cả, thể hiện được vẻ đẹp của người con gái, từ đó bài ca dao Thân em như tấm lụa đào… người con gái không chỉ than thân mà còn ý thức được sắc đẹp, tuổi xuân và giá trị của mình. Chính vì vậy, nỗi đau thân phận của nhân vật trữ tình trong bài ca dao đã được nhân lên. Đã đau lại càng đau hơn!
Trong các vật được đem ra so sánh, các vật giếng, trái bần, quả xoài đều có thêm các định ngữ lâm thời (tức là những định ngữ không chỉ bản chất của sự vật) giếng – giữa đàng, trái bần – trôi, quả xoài – trên cây. Việc dùng thêm các định ngữ này phần nào đã làm nổi bật được thân phận không ra gì của người phụ nữ dưới chế độ cũ.
Ở các câu thơ đầu tiên, tác giả dân gian chủ yếu đưa ra các sự vật để so sánh, còn câu tiếp theo là những câu miêu tả bổ sung, khắc hoạ rõ nét thân phận, cuộc đời bị phụ thuộc, không được quyền quyết định, phải chịu cảnh ôn nhân không có tình yêu, may nhờ rủi chịu. Tuy nhiên, những bài ca dao kết thức bằng các câu hỏi:
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
Một mai rụng xuống biết vào tay ai?
Những câu hỏi này làm cho lời than thêm não nuột. Đó là tiếng kêu đầy ai oán, khắc sâu vào lòng người nghe một nỗi đau thân phận.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!