Cảm nhận bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – VnDoc.com
Cảm nhận bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính dưới đây được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 11 hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra môn Ngữ văn 11 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
1. Dàn ý cảm nhận tác phẩm Tương tư
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Bính
– Giới thiệu chung về tác phẩm Tương tư
2. Thân bài
a. Phần 1: Chàng trai bày tỏ nỗi tương tư của mình
* Tác giả bày tỏ nỗi tương tư:
– “Tương tư” là cảm giác nhớ thương của một kẻ đang yêu, nói đúng hơn là của người yêu đơn phương. Mối tình ấy được ấp ủ, được dồn nén thành lời qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhất.
– Bốn câu thơ đầu bày tỏ nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu. Chàng trai bày tỏ nỗi tương tư của mình:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bênh của tôi yêu nàng”
– Nghệ thuật: nhân hóa
=> Mượn hình ảnh “Thôn Đoài”, “thôn Đông” để nói lên nỗi nhớ của mình.
– Mượn chuyện nắng mưa của giời để trải lòng mình. Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh tiềm ẩn trong chính con người mình, tự nhiên như quy luật đất trời vậy.
* Sự hờn trách của chàng trai:
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
– Những câu hỏi dồn dập, nối tiếp nhau tạo nên sự bối rối, lo lắng và chồng chất nỗi niềm trong lòng chàng trai đang yêu. Tác giả đã mượn lối nói dân gian của ca dao, dân ca để hỏi dò cớ sao cô gái lại hững hờ như vậy.
– Giọng điệu thơ nhẹ nhàng, uyển chuyển, tha thiết như truyền tải thông điệp đến cho cô gái.
– “Cớ sao”: lời trách nhưng lại rất tế nhị, đáng yêu.
=> Mối tương tư của chàng trai trằn trọc suốt bao đêm, nhưng chẳng biết ngỏ cùng ai, rồi cũng chẳng ai thấu cho. Nỗi băn khoăn cứ chồng chất, cứ dai dẳng và đợi chờ.
b. Phần 2: Khao khát hạnh phúc lúa đôi trọn vẹn
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hang cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài ngồi nhớ trầu không thôn nào?
– Tác giả mượn hình ảnh quen thuộc, mộc mạc “cau”, “giầu” để diễn tả tình yêu. Trầu cau để bắt đầu tình yêu đã đẹp, trầu cau để bắt đầu một cuộc sống gia đình, một đám cưới còn đẹp hơn. Có trầu thì phải có cau, màu trầu cau thì hai ta đã sẵn.
– Thay đổi cách xưng hô “tôi – em” thành “anh – em”
=> Sự mạnh dạn chuyển đổi cách xưng hô, cách gọi thân mật. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái.
3. Kết bài
– Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
2. Cảm nhận tác phẩm Tương tư mẫu 1
Nguyễn Bính được mệnh danh là nhà thơ đồng nội, ghi dấu ấn trong lòng độc giả bằng phong cách nhẹ nhàng, bình dị, đậm chất thôn quê. Bài thơ Tương tư trích trong tập “Lỡ bước sang ngang” của ông thể hiện nỗi niềm tâm sự riêng tư của một người trót nhớ thương khắc khoải về một người.
“Tương tư” chắc chắn không phải là cái tên được tác giả lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Nó là một cái tên đủ để toát lên toàn bộ nỗi niềm ẩn chứa bên trong từng câu chữ. Tương tư chính là cảm giác nhớ thương khắc khoải, chờ mong hồi đáp của một kẻ đang yêu thương cuồng nhiệt, nhưng đáng tiếc lại là tình đơn phương. Tâm chân tình của kẻ yêu đơn phương ấy được dồn nén, được ấp ủ và cũng được bộc lộ qua từng vần thơ chân thành, mộc mạc:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
Hai câu thơ đơn giản như vẽ lên trước mắt chúng ta một bức tranh thôn quê yên bình, đơn sơ đến lạ. Tác giả mượn “thôn Đoài”, “thôn Đông”, thông qua thủ pháp nhân hóa được sử dụng tài tình để thổ lộ nỗi nhớ nhung ẩn sâu tận đáy lòng. Ta như nhìn thấy một người giữa tuổi thanh xuân phơi phới, đứng ở thôn này mà hướng mắt xa xăm về phía thôn bên, những mong có thể nhìn thấy bóng hình mà mình thầm thương trộm nhớ.
“Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Câu chuyện nắng mưa của thiên nhiên đã được tác giả sử dụng thật tài tình để nói lên tấm lòng của mình. Nỗi tương tư về một ai đó, giống như căn bệnh trầm kha tồn tại sâu trong tâm hồn và nó là chuyện bình thường, là lẽ dĩ nhiên phải thế giống như quy luật của đất trời. Chỉ với bốn câu thơ mở màn rất đơn giản, tác giả đã thành công trong việc khơi dậy sự thích thú của người đọc trước mối tình bình dị mà cuồng nhiệt của chàng trai thôn Đoài với cô gái thông Đông.
Tuy nhiên, ở những câu thơ tiếp theo, chúng ta lại cảm nhận được nỗi giận hờn, trách móc nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu lắng của chàng trai trước sự hững hờ từ phía cô gái:
“Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Những đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Những câu hỏi nối tiếp nhau dồn dập như lột tả trọn vẹn nỗi lo lắng, bối rối chất chồng đang thổn thức trong lòng của chàng trai đang yêu. Chàng trai bối rối và cũng giận hờn khi dường như cô gái cứ hững hờ, vờ không biết tới tình cảm của chàng trai.
Giọng điệu của mỗi câu thơ đều uyển chuyển, nhẹ nhàng và tha thiết, như chàng trai đang muốn gửi gắm thông điệp tình cảm của mình tới cô gái. Từ “cớ sao” được sử dụng khiến lời trách móc của chàng trai trở nên tế nhị và đáng yêu hơn, đồng thời nó cũng như một lời “gợi ý” cho cô gái. Suốt bao đêm tương tư, chàng trai ấy chỉ có một niềm mong mỏi là “bến” được gặp “đò”, “Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”, mong mỏi cô gái ấy sẽ hiểu cho nỗi lòng của mình.
Và rồi trong cái tâm trạng rối bời vì chờ mong khắc khoải ấy, chàng trai lại tự hỏi:
“Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Thể thơ lục bát mang lại cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng, dễ đi vào lòng người và sức lay động trở nên to lớn hơn. “Giàn trầu”, “hàng cau” lại được tác giả “mượn” để diễn tả nỗi nhớ thương da diết của chàng trai, giống như dây trầu quấn lấy thân cau, như sự “không thể thiếu nhau” của trầu cau trong văn hóa dân gian.
Nhưng bên cạnh sự mộc mạc ấy, việc tác giả thay đổi cách xưng hô một cách táo bạo, từ “tôi với nàng” thành “anh với em” thể hiện tình cảm đó dường như đã quá lớn, quá sâu đậm, thôi thúc chàng trai trực tiếp thổ lộ nỗi lòng với cô gái. Nhân vật trữ tình trong bài thơ có sự bình dị, trong sáng, nhưng cũng có sự chân thành, mãnh liệt.
Có thể nói, nỗi tương tư vốn rất quen thuộc đã được Nguyễn Bính “nghệ thuật hóa” một cách tài tình thông qua ngòi bút xuất thần và thông qua tứ thơ bình dị, mộc mạc.
3. Cảm nhận tác phẩm Tương tư mẫu 2
Kề vai bên những áng thơ mới tuyệt tác từ Xuân Diệu, Thế Lữ hay Huy Cận,… người ta vẫn chẳng thể nào quên được những bài thơ mộc mạc, “ hương đồng gió nội” của Nguyễn Bính. Tình yêu trong thơ của ông luôn đỗi ngọt ngào, trầm lắng tựa như chính tâm hồn tác giả. Bài thơ “ Tương Tư” trong tập “ Lỡ bước sang ngang” đã phần nào thể hiện nên những dòng chảy tâm sự của một kẻ đang yêu đơn phương với biết bao cảm giác nhớ thương, mong mỏi.
Người đời đã nói, người đau khổ nhất trong tình yêu chính là kẻ yêu đơn phương. Khi yêu, con người ta cầu mong luôn được ở cạnh người thương, được kề vai gần gũi, tâm sự. Những người đang yêu nhau mà không được gặp nhau thì sinh ra “ bệnh tương tư”. Chàng trai trong bài thơ Tương Tư của Nguyễn Bính đang ngày đêm nhớ thương một người mà chưa được hồi âm. Bởi thế bốn câu đầu tiên trong bài đã bộc lộ ngay những cảm xúc khắc khoải đang chất đứa đầy trong lòng chàng trai:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng…”
Giữa những chốn không gian bình dị, hiền hòa và yên bình, tác giả mượn “ thôn đoài” với “ thôn đông” tựa như giữa ta với nàng, để giãi bày những cảm xúc từ tận sâu đáy tim mình. Phải chăng người thương của tác giả đang ở tận chốn thôn Đông, còn ta ngồi đây nhớ mong đến nàng. Đôi chốn thôn quê yên ả đang ấm ủ, vun vén cho một tình cảm đẹp đang nảy nở trong lòng nhà thơ.
Thủ pháp nhân hóa tiếp tục được sử dụng trong hai hình ảnh “ mưa” “ nắng”. Sau cơn mưa trời sẽ hửng nắng, cũng như bệnh tương tư thường khó tránh khỏi trong tình yêu. Tác giả mượn chính những công việc của tạo hóa để giải thích cho bệnh tương tư của mình. Căn bệnh ấy là rất đỗi bình thường tựa như quy luật của đất trời khi người ta đang muốn đắm chìm trong nhớ thương. Đặc biệt, trong cả hai dòng thơ thứ ba và thứ tư đều có hệ từ “ là”. Nó tạo nên một phép so sánh hoàn toàn có cơ sở giữa căn bệnh tương tự với tự nhiên.
Cái “ tôi” trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện cùng với “ nàng”. Không còn chút e ấp ngại ngùng che giấu tình cảm, cũng chẳng cần gọi “ nắng” gọi “ mưa” để ví von tình cảm, nhân vật tôi hiện lên một cách rõ rệt cùng với những cảm xúc tưởng chừng muốn bùng nổ, để cho “ nàng” biết rõ được tình cảm của mình vậy. Yêu nhau chẳng thể tránh những cảm xúc giận hờn, băn khoăn:
“ Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”
Đôi ta tuy hai thôn nghe chừng xa xôi, ấy nhưng lại chỉ chung một làng. Khi lòng ta muốn hướng về nhau thì dù xa xôi cách trở cũng sẽ sẽ hòa chung lại làm một. Hai con người nhưng nếu chung một tấm lòng yêu thương, sẽ muốn hướng tới một mái ấm gia đình. Và ngôi làng ấy sẽ là nơi chúng ta vun vén cho ngôi nhà chung của đôi trai gái. “ Cớ sao” được thốt nên mang hơi hướng hờn dỗi, băn khoăn. Hiển nhiên, bên này rất muốn được “ chung” với bên ấy nhưng bên kia lại quá hờ hững. Việc tưởng chừng như rất thực tế, giản đơn lại chứa muôn trùng xa cách bởi lòng người.
Những lời than thở tương tư lại tiếp tục tuôn trào qua những câu thơ tiếp theo:
“ Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Đây có thể nói là đôi dòng thơ thành công nhất trong bài thơ Tương Tư để miêu tả chân thực nhất quy luật bất biến của tình yêu đơn phương. “Ngày qua ngày” lặp lại tựa như những cảm xúc đợi chờ đến vô vọng. Thời gian trôi đi càng khiến người ta sốt ruột, khó chịu vì đợi chờ hồi âm.ở câu thơ bát tiếp theo cũng có sự ngắt nhịp bất thường, nhịp ngắt ba “ lá xanh nhuộm” cùng năm từ “ đã thành cây lá vàng” càng khắc sâu cảm giác đợi chờ mòn mỏi. Tự thuở nào lá cây còn xanh non mơn mởn giống như những tình cảm chớm nở lúc mới yêu thế mà giờ đây, theo tháng năm đã phai tàn thành cây “ lá vàng”. Bệnh tương tư còn nhuộm cả màu của tình yêu. Như Nguyễn Du đã từng viết: “
Người buồn cảnh có bao giờ vui đâu”
Hay
”Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”
Tâm hồn của con người cũng luôn đồng điệu với thiên nhiên vậy. Lòng đã không vui thì cảnh có đẹp đến nhường nào cũng hóa làm vô vị.
Trạng thái tâm lý tiếp theo mang chút hờn trách xa xôi:
“Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho! “
Khi yêu đơn phương là chỉ dám ngắm nhìn người thương từ xa, nào có dám bộc lộ cho hết nỗi tâm tình trực tiếp với cô gái ấy. Nối thầm cho vơi bớt nỗi lòng nhưng lại cứ ngỡ cô gái mình yêu sẽ có thể hiểu thấu. Thôn đoài cùng với thôn đông chung một bến nước cây đa, cùng gọi tên chung một làng. Nào có cách trở xa xôi như “ cách trở đò giang”, ấy vậy mà ta cũng chẳng thể nào gặp nhau cho trọn vẹn để nói hết tâm tình. Chẳng qua cái tình còn xa, đối phương còn chưa biết được tình cảm của ta nên khiến cho mình vẫn phải cách trở, tương tư nhau. Đã thao thức biết bao đêm, đã khiến cho lá cũng úa màu, cho lòng mình bạc thương nhưng hỡi ai biết cho ngoài lòng mình.
Câu hỏi “ biết cho ai, hỏi ai người biết cho” chỉ góp vào một lời than thở hờn mát như để xoa dịu lòng người đôi chút. Vậy nên chàng trai sẽ vẫn luôn hy vọng mộng mơ về một tương lai không xa rằng:
“ Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
“Bến”-“ đò”, “ hoa khuê”-“ các bướm” đều là những hình ảnh thường được mượn để nói đến quan hệ lứa đôi. Trong thơ xuân quỳnh, bà đã dùng hình ảnh của “ thuyền “ và “ biển” để nói lên nỗi nhớ thương của các cặp đôi, thì với Nguyễn Bính, đò cập bến, bướm tìm đến hoa thơm là những điều tự nhiên, chẳng bao giờ đổi thay. Chỉ tiếc là thời điểm cho những việc ý biết bao giờ cho đến. quả là một mơ tưởng, hẹn ước xa vời.
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Người ta thường nói ” Miếng đầu là trầu câu chuyện” khi có dịp thưa gửi, cưới xin. Vậy nên, Tác giả mượn “giàn trầu” và “hàng cau” để diễn tả nỗi nhớ da diết và quấn quýt như dây trầu quấn lấy thân cau. Nguyễn Bính thật khéo léo và tài hoa khi diễn tả nỗi nhớ bằng những hình ảnh thân quen và mộc mạc ấy. Ở 4 câu thơ này, người đọc nhận ra có sự thay đổi giữa cách xưng hô, tác giả đã mạnh dạn chuyển “tôi-nàng” thành “anh-em” rất táo bạo. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình này đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái
Tương tư” của Nguyễn Bính đã diễn tả gần gũi nhất những cung bậc cảm xúc của chàng trai đang rơi vào tình đơn phương. Những tâm sự, nhớ nhung, biết vô vàn những lời muốn nói đều được Nguyễn Bính sắp đặt rất tuần tự, tự nhiên và hợp lý. Chẳng ai có thể ngăn cản được tình yêu đến, dù là những cảm xúc hờn dỗi, than thở hay trách than cũng đều thật đáng nhớ trong cuộc đời.
4. Cảm nhận tác phẩm Tương tư mẫu 3
Bài Tương tư nằm trong một thi tứ bao trùm Thơ mới: tình yêu nam nữ – thứ tình yêu hiện đại trăm hình muôn trạng của văn học lãng mạn giai đoạn 1930 — 1945… cái tình say đắm, cái tình thoảng qua; cái tình gần gũi, cái tình xa xôi…, cái tình trong giây phút, cái tình thiên thu.
Con người lãng mạn trong bài thơ Tương tư đã thao thức chín nhớ mười mong người thương ròng rã suốt mấy đêm rồi, mong nhớ hết ngày này đến ngày khác, thậm chí hết tháng này qua tháng khác: Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng… Theo đạo lí quân tử tu, tề, trị, bình Nho gia, nhất là Tống Nho, thì kẻ nam nhi như thế là hỏng quá… Nhưng sức cuốn hút của thơ tình Nguyễn Bính trong bài Tương tư chủ yếu không phải do thái độ thành thực giãi bày nỗi niềm chín nhớ mười mong nay do sự cải lí cho tính phù hợp quy luật của tình yêu nam nữ, đặng biện hộ cho đạo lí nhân văn (không ít nhà thơ lãng mạn đương thời bộc lộ tình cảm yêu thương nhiều khi còn đắm đuối hơn (Ao ước – Tế Hanh), tinh tế hơn (Ngậm ngùi – Huy Cận) hoặc não lòng hơn: Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ – Lạc giữa niềm êm chẳng bến bà – Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá – Hai người nhưng chẳng bơ va (Trăng – Xuân Diệu); mà sức cuốn hút chủ yếu là bởi những rung động của trái tim thi sĩ (thể hiện trong cấu tứ cũng như ở ngữ điệu – giọng) dung hợp rất nhuần nhuyễn tính cách dân tộc.
Chúng ta đều rõ: Linh hồn của một dân tộc thể hiện tập trung ở các hình thái folklore. Trong folklore Việt Nam có khu vực đặc biệt phát triển: thơ ca dân gian không chỉ do số lượng, mà còn ở chất lượng, ca dao dân ca là một tổng kho văn hóa chứa đựng trí tuệ, tâm linh, thần thái Việt… và trong kho tàng tinh thần đó, xuất hiện biết bao vần thơ tình yêu đặc sắc không thua kém bất cứ một khúc tình ca nào trên thế gian. Nhà thơ Nguyễn Bính chính là một chú bướm (Con bướm vàng tuyển đậu Thám hoa – Truyện cổ tích) đã xâm nhập rồi lượn bay trên một cùng văn hóa dân gian đặc biệt của dân tộc: ca dao dân ca, và đã hấp thụ được một lượng hương nhụy đáng kể…
Trong thơ mới, tất nhiên không phải chỉ riêng Nguyễn Bính, mà một số thi sĩ khác cũng đã quy tụ gần xa chung quanh vùng văn hóa cội nguồn dân tộc này – như tác giả Thi nhân Việt Nam từng nhận xét: Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vịn vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai. Tình hình ấy cũng hoàn toàn phù hợp với một quy luật hình thành văn học lãng mạn thế giới; ví dụ không ít những cây bút lãng mạn châu u thế kỉ XIX cũng đã quay về với dân tộc, văn hóa dân gian, quan tâm sưu tầm các sáng tác dân gian theo quan niệm: cần hợp hồn giữa thời xưa và thời nay (Mickiêvich) vì có khi: phải tìm đến dân ca mới thấy được thơ chân chính.
Một trong những nét đặc trưng của tính cách Việt là ý thức về độ (không vượt ngưỡng). Ý thức về độ ấy đã chi phối nhiều khu vực văn hóa dân gian Việt: về kiến trúc, các công trình xây dựng không quá lớn, về sân khấu tuồng, bi mà vẫn tráng, chèo khi đau buồn phải có hề xua tan ngay không khí thảm sầu, về tín ngưỡng, lễ hội, nghiêm trang mà không khe khắt, về ứng nhân xử thế, ít muôn cạn tàu ráo máng… Ý thức về độ của tính cách Việt do các nguyên nhận lịch sử, đại lí lâu đời quyết định… Đồng hành trong hệ thống văn hóa ấy, tình yêu nam nữ trong ca dao dân ca tuy đắm đuối thiết tha mà không mấy bi lụy – cái thi tứ rũ liệt đến muốn tự diệt vì tình tuyệt vọng hầu như không xuất hiện trong thơ ca dân gian. Vả chăng, người bình dân (gồm cả lao động và trí thức) chủ nhân văn hóa dân gian, trong cuộc sống lúc đang lúc đang yêu thì thường cũng là khi đang có nhiều trách nhiệm lớn nhỏ ràng buộc – đối với gia đình chẳng hạn. Hãy nghe lời van vĩ dễ thương của một thôn nữ tội nghiệp xưa:
Chàng ơi buông áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa
Chợ trưa rau nó héo đi
Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em.
Chúng ta tin chắc rằng dẫu thiếu nữ ấy có trong tình huống
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mà mắt không khô.
Đi nữa, thì cô cũng khó tùy tiện ngã bệnh hoặc liều thân, bởi vì ai sẽ thay cô tần tảo nuôi mẹ, nuôi em? Do đó, sầu tương tư, tình tuyệt vọng.. trong ca dao dân ca xưa chỉ đưa chàng đến mức nuối tiếc:
Tiếc công anh đắp đập be bờ.
Để ai quăng đó, đem lờ đến đơm,
Đêm qua vật đổi sao dời,
Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan…,
Hoặc dẫn nàng đến độ ngẩn ngơ:
Ngày ngày em đứng em trông
Trông non non ngất, trông sông sông dài…,
Quá nữa là:
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai dòng nước mắt dầm dầm như mưa…,
Và trạng thái thông thường của họ là:
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện chăng tơ…
sầu nhớ quá, nhưng… còn nhiều việc phải làm.
Tình yêu không thể là cứu cánh duy nhất!
Nét chủ yếu của tính cách dân tộc trong bài thơ Tương tư chính là khuynh hướng cấu tứ khái quát mang ý nghĩa về độ chín: chín nhớ mười mong dài theo tháng ngày, dẫu biệt vô âm tín vẫn tiếp tục chờ đợi: Bao giờ bến mới gặp đò. với niềm hi vọng xa vời: Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?… và chỉ đến mức ấy thôi, chứ không phải kiểu phản ứng quyết liệt: Rồi anh chết, anh chết sầu chết héo – linh hồn anh thất thểu dõi hồn em… như chàng lãng mạn trong bài Ao ước của Tế Hanh- ý tứ cực đoan này phải chăng chỉ phù hợp với tâm lí một số độc giả thành thị – Phong cách cấu tứ thơ tình yêu với các mức độ tình cảm phù hợp dân tộc tính như vậy đã xuất hiện trong hầu hết những bài thơ của Nguyễn Bính. Những nhân vật trữ tình thơ Nguyễn Bính (người thật hoặc hư cấu, khách thể hoặc chủ thể) dẫu có tâm trạng muốn yêu đơn phương, tình tuyệt vọng… đều ứng xử có chừng mực: một chàng trai bị người yêu thờ ơ, chỉ than thở: Tình tôi mở giữa mùa thu – Tình em lẳng lặng kia như buồng tằm(Đêm cuối cùng), một cô gái bị lỗi hẹn cũng nhẫn nại đợi chờ: Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày – Bao giờ em mới gặp anh đây (Mùa xuân), anh lái đò kia thất tình phẫn chí định bỏ nghề, nhưng rồi lại thôi: Lang thang anh dặm bán thuyền – Có người trả chín quan tiền lại thôi. (Anh lái đò), một chàng trai thất tình không oán hờn mà chẳng nặng lời: Em đã sang ngang với một người – Anh còn trồng cải nữa hay thôi? – Đêm qua mơ thấy hai con bướm – Khép cánh tình chung ở giữa trời (Hết bướm vàng), đau đớn hơn: người yêu yểu mệnh, nhưng nỗi đau ấy đã hòa tan cùng mộng ảo: Đêm qua nàng đã chết rồi – Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng – Hồn trinh còn ở trần gian – Nhập vào bướm trắng mà sang bên này (Người hàng xóm)… và trước thái độ quá thờ ơ của cô gái hái mơ, khách đa tình chỉ trách móc mơ màng:
Cô hái mơ ơi, cô gái ơi
Chả trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng trôi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi…
Đặc điểm dân gian, dân tộc ấy trong cấu tứ khiến những bài thơ tình Nguyễn Bính, trước và sau 1945 dễ dàng tìm được sự đồng cảm và tiếp đón hào hứng của một số lượng độc giả lớn(thành phố và tỉnh nhỏ, thành thị và nông thôn…) mà có lẽ chưa nhà thơ lãng mạn nào đạt được.
Quảng đại quần chúng độc giả tìm đến thơ tình Nguyễn Bính còn vì những bài thơ mang tình tứ gần gũi với tâm hồn, tính cách người Việt ấy đã được thể hiện bằng một thứ từ ngữ điệu (giọng) thân quen: giọng ca dao dân ca. Tình ca Tương tư, đó là thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt giàu tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác (Biết cho ai, hỏi ai người biết cho…) Biểu hiện đậm đà chất giọng ca dao dân ca trong Nguyễn Bính phải chăng là các bài: Chân quê, Đêm cuối cùng, Chờ nhau, Giấc mơ anh lái đò, Người hàng xóm và Lỡ bước sang ngang) Bài thơ đã dân gian hóa đến mức được dùng để ru em. Đông đảo người đọc đến với thơ tình yêu Nguyễn Bính còn do những dòng thơ thuần tính cách người Việt đó là đã đánh thức biết bao kỉ niệm êm đềm về quê hương xứ sở thân yêu…
Trong bài Tương tư, đó là hình ảnh: thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau… ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi, những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải vàng, vườn chanh, vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay, ven đê là ruộng dâu, bãi cháy, bãi đất, vườn chè, bên ao bèo, bên giếng khơi, giậu mùng tơi xanh rờn… là những thôn nữ đôn hậu dệt lụa chăn tằm, đi trẩy hội chùa, hội làng, xem hát chèo mùa xuân với trang phục đằm thắm, dây lưng đũi, yếm lạu sồi, áo đồng lẫm, quần lĩnh tía… nhưng anh lái đò, cô lái đò sống giữa hương đồng gió nội và dưới bầu Giời cao gió cả giăng như ban ngày…
Hương đồng gió nội trong thơ Nguyễn Bính sáng tác trước 1945, được đông đảo độc giả mến mộ dài lâu. Hiện tượng ấy khiến chúng ta nhớ lại điều dự báo có sức khái quát của tác giả Thi nhân Việt Nam 50 năm trước : Nếu các thi nhân ta đủ sức chăn thành để kể thừa di sản xưa, nếu họ biết tìm đến thơ xưa với một tấm lòng trẻ, họ sẽ phát huy được những gì vĩnh viễn hơn, sâu sắc hơn mà bình dị hơn trong linh hồn nòi giống. Nhất là ca dao sẽ đưa họ về với dân quê, nghĩa là với chín mươi phần trăm số người trong nước. Trong nguồn sống dồi dào và mạnh mẽ ấy, họ sẽ tìm ra những vần thơ không chỉ dành riêng cho chúng ta, một bọn người có học mới mà có thể làm nao lòng hết thảy người Việt Nam.
5. Cảm nhận tác phẩm Tương tư mẫu 4
Thơ Nguyễn Bính mang màu sắc dân gian, khơi gợi cho ta ít nhiều về hồn xưa đất nước, quy tụ trong những câu thơ mộc mạc, giản dị mà thấm đẫm nghĩa tình.
Tương tư là thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ bình dị của Nguyễn Bính. Bài thơ là xúc cảm nhớ nhung, tha thiết của chàng trai chân quê với nhiều cung bậc phong phú, đẹp đẽ, thắm đượm màu sắc dân gian, hồn quê ấm áp. Màu sắc dân gian đã tạo bầu không khí thôn quê cho thi phẩm nhưng đồng thời cũng là nét đặc trưng cho phong cách thơ của Nguyễn Bính.
Một tác phẩm mang đậm màu sắc dân gian là tác phẩm mang tình cảm truyền thống cũng như phương thức thể hiện thường được bắt gặp ở ca dao, dân ca. Ca dao dân ca là chuỗi ngọc trong sáng vô ngần của người lao động bình dân. Nó thấm đẫm cách cảm, cách nghĩ của người lao động
Bài thơ tương tư trước hết là một sản phẩm của nền Thơ mới. Khi tung phá bức màn ước lệ để nhìn thẳng vào cái tôi cá nhân của mình, Thơ mới thoát ra như một tiếng ca chân thật, phong phú, mặc sức phô bày không hề giấu giếm. Nhiều nhà thơ chọn viết về đề tài tình yêu như Nguyễn Bính luôn hướng ngòi bút vào chiều sâu thẳm, huyền bí của cõi thơ này.
Thế nhưng, Nguyễn Bính đã có một hướng đi khác. Nói rằng ông có một hướng đi khác lạ thật là không phải bởi ông chưa từng rời đi. Nói ông đã có những sáng tạo vượt bậc cũng không phải bởi ông chưa từng phá vỡ thi pháp vốn có trong ca dao. Thơ ông không phải là cái tình thoảng qua, cũng chẳng phải là tình thiên thu. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính nằm ngay trong đời sống dân tộc được phản ánh sâu sắc trong ca dao trong mấy nghìn năm qua. Thơ ông chứa đựng cái hồn bình dị của dân tộc.
Mở đầu bài thơ, là lời tâm tình của chàng trai:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tối yêu nàng”.
Một nỗi niềm nhung nhớ, tương tư ấy vậy mà lắm cung bậc đẹp đẽ. Giọng kể tâm tình vvừa tự nhiên lại vừa hết sức kín đáo. Rõ ràng là chuyện tôi yêu nàng ấy vậy mà cứ vòng vo không nói nên lời. Đó chính là cái tình trong sáng, thánh thiện mà ta thường bắt gặp trong ca dao dân ca:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em nhận thì cho anh xin”.
(Ca dao)
Nào phải là chuyên quên chiếc áo mà đó chính là cái cớ để gặp gỡ, để chuyện trò, thổ lộ tâm tình. hay một cách tỏ tình khác đẹp đẽ, tinh tế hơn:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”
(Ca dao)
Hình ảnh chàng trai ẩn mình trong biểu tượng “thôn Đoài”. Tình cảm cũng được che giấu tế nhị: “ngồi nhớ”, không hề vồ vập hay lộ liễu. Người xưa là thế, nhẹ nhàng, kín đáo mà đắm say, nồng nhiệt: “chín nhớ mười mong”. Tiếp đến, chàng trai tiện lời tỏ bày sau khi đã viện cái cớ:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”
Lời thơ như trách móc nhưng kì thực là để gợi mở, mời gọi bước chân thôn nữ tìm đường sang chơi. Đây cũng là cái cớ để trò chuyện, đưa lời, hỏi đáp. Chắc chắc rằng, cô gái ấy đã hấu hiểu tâm tình của chàng trai. Chân đã muốn tìm đường sang mà ngại đường chưa tỏ lối. Lí ra, chàng trai sẽ chủ động hơn nhưng trong lòng còn nhiều e ngại, chưa rõ nguồn cơn để mạnh lời hơn nữa, đành kín đáo gửi lời theo gió theo trăng:
“Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”
Tưởng rằng chàng trai đang nói với cô gái nhưng kì thực đây là một đoạn độc thoại tự vấn. Nỗi niềm đau đáu trong lòng không thể giãi bày, muốn tìm một lời giải đáp đẻ xóa tan u uẩn. Thời gian đằng đẵng trôi càng làm cho tình yêu trong lòng cuộn cháy, thôi thúc không nguôi mà lòng người xa còn đang mờ mịt. Có một chút oán trách nhưng nào lỗi tại ai. Chàng trai không dám trực tiếp ngỏ lời e rằng như thế là thô lỗ. Càng giấu giếm trong lòng nó càng cào cấu dữ dội. Tưởng chừng, niềm thôi thúc ấy sẽ là nguồn sức mạnh mãnh liệt đưa bước chàng trai tìm sang thôn Đông. Nhưng không, chàng quyết định im lặng và chỉ tìm gặp nhau trong mộng tưởng:
“Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?”
Mãi mãi, tình yêu thầm kín được chôn giấu trong lòng. Tình yêu ấy biến thành khát vọng đẹp và suốt cuộc đời chỉ là niềm khao khát xa vời mà thôi:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Đọc thơ Nguyễn Bính thấy nhẹ nhàng và thanh lọc tâm hồn. Mỗi câu thơ đưa ta trở về với hồn xưa đất nước. Bởi lẽ dù viết về chuyện tình yêu dù hợp duyên hay trắc trở, tất cả đều đặt trong không gian vườn tược của làng quê tươi xanh, tràn trề sức sống. Màu sắc dân gian của bài thơ Tương tư toát lên từ chính khung cảnh làng quê bình dị, tĩnh lặng và thân thuộc. Đó chính là phong nền cho tình yêu lứa đôi nảy nở. Thơ Nguyễn Bính có sự vận dụng linh hoạt lời ăn tiếng nói của dân gian. Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, cảm giác như ta đã từng đọc thấy hay nghe được ở đâu đó trong ca dao dân ca.
6. Cảm nhận tác phẩm Tương tư mẫu 5
Nguyễn Bính là thi sĩ của đồng quê, như nhà văn Tô Hoài từng nhận xét: “Chỉ có quê hương mới tạo ra được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỉ đề thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình yêu tuyệt vời của Nguyễn Bính”. Để bàn luận đến phong cách thơ bình dị, mộc mạc, đậm chất thôn quê của Nguyễn Bính, chúng ta không thể nào không nhắc đến Tương tư.
Cũng như các nhà thơ lãng mạn đương thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu. Nhưng cách biểu hiện thì theo một lối riêng của chính ông. Trong khi các nhà thơ lãng mạn hướng về phương Tây, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây, thì Nguyễn Bính hướng về nghệ thuật dân tộc, chịu ảnh hưởng của thơ ca dân gian. Với Tương tư, Nguyễn Bính bắt đầu chủ đề tình yêu bằng một nỗi nhớ:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người
Trong cuộc sống hàng ngày, tương tư là chỉ nỗi nhớ nhung đơn phương, thầm kín của người con người với đối tượng mà mình có cảm tình hoặc yêu thích. Vậy mới nói, tình yêu nào cũng bắt đầu bằng nỗi nhớ, và tình yêu trong Tương tư cũng vậy. Cũng là nhớ, nhưng là “chín nhớ mười mong”, là nhớ thương khắc khoải. Cái nỗi nhớ da diết tưởng chừng như không đong đếm được được nhà thơ gói gọn trong bốn chữ “chín nhớ mười mong” nhưng lại càng khiến cho nỗi nhớ như trải rộng thêm ra, đầy thêm lên.
Nỗi nhớ ấy chính là tương tư, chính là biểu hiện của tình yêu! Đến hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã khẳng định đó chính là tình yêu! Vì yêu nên mới “chín nhớ mười mong”, vì yêu nên mới tương tư, chờ đợi:
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Đến đây, nỗi nhớ đã được chỉ đích danh. Đó là nỗi nhớ của tình yêu, nỗi nhớ của một người con trai dành cho một người con gái. Người con trai đang yêu này là con người có gốc rễ sâu xa với làng mạc quê hương. Vì thế, đến cả cái chất yêu, cái chất nhớ cũng đượm tình quê, hồn quê bình dị mà chân thật. Thơ của thi sĩ lãng mạn mà như của dân dã, nỗi nhớ mộc mạc mà lại đằm thắm, tâm tư. Nguyễn Bính thích lối cụ thể hoá cái trừu tượng của ca dao, cụ thể ra thành chữ số (yêu nhau tam tứ núi cũng trèo), nhưng lại có cấu trúc điêu luyện của thơ:
Một người chín nhớ mười mong một người
“Một người” đứng ở hai đầu câu thơ, tạo ra một khoảng cách, diễn tả sự xa cách, nhớ mong như vậy quả là hay, quả là độc đáo! Tâm trạng của người tình đơn phương cũng được mở ra với trời đất. Rằng trời cao kia cứ nắng cứ mưa, còn “tôi” đây dù nắng dù mưa vẫn một nỗi lòng yêu thương, nhớ nhung “nàng”.
Có lẽ đây chính là hai câu thơ được nhiều người nhớ nhất, nhiều người nhắc tới nhất của Tương tư – Nguyễn Bính. Bởi nó không chỉ là tâm trạng của chàng trai thôn quê trong riêng Tương tư mà còn là nỗi niềm chung của biết bao chàng trai đang yêu khác, câu thơ như nói thay tâm tư của họ.
Thương thầm nhớ trộm, đơn phương vẫn biết “quyền được yêu” của con người, nhưng đã đơn phương thì lấy quyền gì trách móc? Tình yêu đôi khi phi lí như vậy:
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này
Đọc câu thơ, ta thấy tội nghiệp cho người trách hơn là người bị trách. Rõ ràng là nàng “Thôn Đông” đâu có hay biết rằng mình đã lọt vào mắt xanh của chàng “Thôn Đoài”. Nhưng thấy người ở Thôn Đoài mười mong chín nhớ đến độ tự hờn giận vu vơ lại thấy thật tội nghiệp, đáng thương. Đáng thương nhất không phải tình cảm không được đáp lại mà là ngay cả mình thích người ta cũng không để người ta biết, không dám để người ta biết, chỉ biết lặng lẽ nhớ mong rồi chờ đợi vào hai chữ “vô tình”.
Rõ là chung làng, không gian gần thế mà sao cái “chung” đã không chung được thì thời gian càng đằng đẵng, nỗi chờ mong càng vò võ:
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Cách sử dụng láy chữ “ngày qua ngày lại…” như là âm hưởng của luyến láy trong âm nhạc dân gian, như dân ca, như hát chèo. Cách phô diễn của Nguyễn Bính cũng uyển chuyển. Cùng là sự vận động của thời gian mà câu trên là nhạc, và câu dưới là màu. Nhạc là của ngày, màu là của mùa. Nhưng không thể viết “mùa qua mùa lại…” mà phải viết “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” thì ấn tượng tương tư mới đậm, tương tư đến vàng vọt cả “lá xanh” hay là héo úa cả tuổi xanh?
Trong tình yêu, sợ nhất là chờ đợi, mà lại còn là không biết sẽ chờ đợi bao lâu. Bởi thế mới càng nhớ nhung, càng nhớ càng sinh ra bứt rứt, vu vơ hờn giận:
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho
Hết trách móc lại chuyển sang kể lể, than thầm. Kể lể như vậy là để bộc lộ lòng yêu tha thiết của người tình, nhưng khốn nỗi có “ai” biết cho nỗi lòng tương tư trắng đêm ấy. Những từ “ai” phiếm chỉ được điệp lại gây âm hưởng trùng điệp nghe mà não lòng. Những từ “ai” gợi nhớ những từ “ai” trong ca dao:
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai.
Than thầm, trách móc vì yêu, vì nhớ, vì tương tư. Tình cảm đơn phương vốn xưa nay chẳng mấy ai vui. Có lẽ nhớ thương não nề vì mong ước vô vọng, sự chờ đợi khiến trái tim tình si thêm khao khát, lại nhuốm thê lương:
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Cùng một lúc nhà thơ dùng hai biểu tượng bến và đò, hoa và bướm thường thấy trong ca dao. Cũng như trong ca dao, biểu tượng tĩnh như bến, hoa ám chỉ người con gái, biểu tượng động như đò, bướm ám chỉ cho người con trai. Vận dụng biểu tượng chung, Nguyễn Bính đã khéo léo biểu đạt cảnh ngộ riêng của đôi bạn tình. Sao lại “Bao giờ bến mới gặp đò”? Thế là mong ước của chàng trai vô vọng rồi. Đò dịch thì thuận chứ sao lại đòi bến dịch? Cho nên cứ trách “cớ sao bên ấy chẳng sang”, rồi “không sang là chẳng đường sang đã đành”, rồi “tình xa xôi”. Lại nữa “hoa khuê các” làm sao gặp “bướm giang hồ”? Rõ ràng là Nguyễn Bính đã thổi vào hoa – bướm của dân dã một chút tình lãng mạn của thời đại. Thành ra cuộc tình của đôi lứa vừa có cái bí ẩn như những cuộc tình trong ca dao lại thêm chút “khó hiểu của thời đại” như Hoài Thanh từng nói. Thực chất, sâu trong thâm tâm, dẫu trái tim tình si có yêu thương, nhớ nhung mãnh liệt nhưng vẫn cảm nhận được sự vô vọng, mộng tưởng xa xôi. Thế mới là tương tư, thế mới chỉ biết tương tư, thầm sầu, thầm trách trong đơn phương vô vọng.
Cuối bài thơ, nhịp thơ trở về với giai điệu ban đầu, câu thơ chỉ khác ở chỗ có thêm một vài biến tấu:
Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Câu thơ “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông” được nhắc lại, có thêm cặp biểu tượng của tình yêu là trầu – cau. Dẫu trầu cau là biểu tượng kết đôi, lứa đôi hạnh phúc nhưng dẫu có trầu, có trầu, có cau thì cũng chỉ là nhớ đơn phương thôi, người nhớ người, cau nhớ trầu, chứ không làm sao “đỏ với nhau được” như ca dao:
Miếng trầu với lại quả cau
Làm sao cho đỏ với nhau thì làm
Ấy thế mới lại càng khắc khoải không yên, càng tương tư day dứt. Tương tư là nỗi nhớ mong, mà nhớ mong thầm kín, đơn phương thì há chẳng phải là thất tình? Bởi thất tình mới cứ mãi vấn vướng không dứt, cứ buồn man mác mà chẳng biết ngỏ cùng ai, chỉ biết thốt lên dăm bảy câu thơ tỏ lòng cùng nỗi nhớ, có trách móc, hờn giân đấy, mà là “giận thì giận mà thương càng thương”.
Thơ Nguyễn Bính chở đầy tình quê, hồn quê, thắm đượm cái chất “hương đồng gió nội”. Bởi vậy, thơ Nguyễn Bính thành ra lạ so với trường phái thơ lãng mạn đương thời. Sức hấp dẫn của Tương tư không chỉ là ở chuyện tình yêu lứa đôi mà còn ở tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương, với người với cảnh, ở sự nâng niu trân trọng của nhà thơ đối với nghệ thuật dân tộc, ở lối tư duy thơ đậm màu sắc dân gian, mỗi câu thơ đều đượm sắc ca dao dân ca mộc mạc, thuần tuý. Quả là một hồn thơ quê thanh khiết, bình dị mà đằm thắm, sắc son hiếm có!
–
Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Bài viết đã gửi tới bạn đọc dàn ý và các bài văn mẫu. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn nhé. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 11, soạn bài lớp 11 các bài Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 11 trong sách Văn tập 1 và tập 2. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.
Các bài liên quan đến tác phẩm:
- Soạn bài Tương tư
- Soạn văn 11 bài: Tương tư
- Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!