Cảm nhận đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
1. Dàn ý Cảm nhận về Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
Đặng Trần Côn là một tác giả nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh ra tại Hà Nội và được biết đến là một trong những tác giả có ảnh hưởng lớn đến văn học Việt Nam. Ông đã viết nhiều tác phẩm văn học đặc sắc, với nhiều chủ đề khác nhau, nhưng trong số đó, Tình cảnh lẻ loi người chinh phụ là một trong những tác phẩm nổi tiếng và được yêu thích nhất.
Tình cảnh lẻ loi người chinh phụ là tác phẩm viết về cảnh và tâm trạng của một người phụ nữ phải sống trong cô đơn, buồn khổ trong thời gian chờ đợi chồng trở về từ chiến trường nhưng không có tin tức. Tác phẩm này đã đi vào lòng người đọc bởi nội dung sâu sắc, cảm xúc và sự đầy cảm hứng mà nó mang lại.
1.2. Thân bài:
Tám câu đầu: Thời gian chờ đợi mỏi mòn.
- Người chinh phụ hành động vô thức, không kiểm soát.
- Sự ngóng trông tin lành nhưng biệt vô âm tín.
- Hình ảnh ngọn đèn thể hiện sự cô đơn và nỗi sầu thương.
- Tiếng gà đơn độc trong đêm tối.
- Hòe phất phơ gợi cảm giác cô đơn, lạnh lẽo.
- Mối sầu đong đầy thành biển khơi vô tâm.
- Người thiếu phụ lo lắng trong sự bồn chồn không yên.
- Sự gắng gượng thoát khỏi nỗi cô đơn bằng cách:
- Đốt hương -> mê mải về quá khứ.
- Soi gương -> nước mắt tuôn trào.
- Gảy đàn -> lo cho đứt dây đàn báo điềm chẳng lành.
Người phụ nữ càng gắng gượng thoát nỗi cô đơn thì càng đau khổ tuyệt vọng.
* Tám câu cuối: Sự thương nhớ của người thiếu phụ
- Gió đông: mùa xuân.
- Nghìn vàng: tình yêu và trân trọng.
- Núi Yên: chiến trận xa xôi.
- Người thiếu phụ nhớ chồng.
- Nàng không biết núi Yên ở đâu, nỗi niềm khó thấu.
- Cảnh buồn: sương, cành cây, mưa phùn đầy nỗi buồn. Nỗi buồn khôn nguôi, dày vò, không thoát.
1.3. Kết bài:
– Bài thơ đầy cảm xúc về cô đơn, buồn khổ, khát khao sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
2. Cảm nhận Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất:
Chinh phụ ngâm là một tác phẩm văn học được viết bằng chữ Hán vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Thời kì đó là thời điểm xã hội phong kiến rối ren với chiến tranh xảy ra liên miên và nước Việt Nam chia làm hai nửa. Tác phẩm này phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát đó. Chinh phụ ngâm đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ và được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo nhất.
Chinh phụ ngâm phản ánh sự ghê tởm của chiến tranh phong kiến phi nghĩa và vị trí quan trọng của tình yêu và hạnh phúc trong cuộc sống. Bài thơ tập trung vào câu chuyện của một người chịu đựng nỗi cô đơn sau khi chồng ra trận và đề cao tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Bài thơ đã thể hiện rất rõ tâm trạng cô đơn của người chinh phụ.
Đoạn miêu tả tình trạng cô đơn và khao khát tình yêu của người chinh phụ (từ câu 193 đến câu 228) được rút ngắn lại nhưng vẫn giữ được những ý tưởng chính.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Tiếng gà gáy báo hiệu một ngày mới bắt đầu, đồng thời tăng thêm vẻ tĩnh lặng của cảnh vật. Cây hòe nhẹ nhàng đung đưa trong ánh sáng mờ của buổi sáng sớm, tạo ra bóng đổ và góp phần tăng cảm giác buồn bã, cô đơn. Trong không gian đó, người vợ của nông dân cảm thấy nhỏ bé và cô đơn, không biết cảm giác này sẽ kéo dài bao lâu. Dường như cả thế giới đang chìm trong sự im lặng, chỉ có tiếng gà gáy vang vọng xa xôi. Những tia nắng đầu tiên của ngày mới vẫn chưa đủ để làm cho cảnh vật trở nên tươi sáng và sống động. Thế giới xung quanh bắt đầu tràn ngập tiếng động, nhưng cảm giác cô đơn vẫn còn đọng lại trong tâm trí người vợ nông dân.
Trong các khổ thơ tiếp theo, nỗi đau khổ hiện rõ trong từng chữ, từng câu, mặc dù tác giả không nhắc đến chiến tranh.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Câu chuyện kể về một người vợ cô đơn sau khi chồng đã rời bỏ cô. Cô ấy cố gắng tìm cách vượt qua cảm giác cô đơn bằng cách trang điểm và chơi đàn. Nhưng mọi cố gắng của cô ấy đều thất bại và khiến cô ấy càng lún sâu vào tuyệt vọng và lo âu. Cô ấy thường xuyên sử dụng đàn và gương để tìm niềm an ủi nhưng lại càng nhớ đến sự tàn phai của tình yêu và cảm giác cô đơn. Cuối cùng, người chinh phụ chỉ có thể trở về với nỗi cô đơn đang áp đảo cô ấy.
Những hình ảnh sắt cầm, uyên ương, loan phụng thường được dùng để tượng trưng cho tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, khi vợ chồng bị xa cách, những hình ảnh đó trở nên vô nghĩa. Người chồng không dám đụng vào bất cứ thứ gì, vì những kỷ niệm đẹp đã qua và sự chia ly hiện tại. Tâm trạng của người vợ rất chông chênh và chơi vơi, gây ra sự khổ sở và bất an trong cuộc sống. Cô ấy chỉ biết mong chờ và gửi nhớ thương theo cơn gió.
Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Sau những ngày dài đầy u ám của một trạng thái bế tắc cao độ, người chịu trách nhiệm trong gia đình bỗng nảy ra một ý nghĩ lãng mạn: nhờ gió xuân thổi trao trọn tình cảm của mình đến người chồng đang cô đơn chiến đấu trên chiến trường xa xôi, với hy vọng mong muốn giành được những danh hiệu cao quý. Chắc chắn, chàng cũng đang nhớ về ngôi nhà yêu thương ấm cúng, về nụ cười đáng yêu của mẹ già, vợ trẻ và đứa con thơ ấu. Những hình ảnh về cuộc sống bình dị đang tràn ngập trong tâm trí, đưa chàng trở về thời điểm đầy hạnh phúc và yên bình trước khi chiến tranh xảy ra.
Những cảm xúc nồng nàn, những suy tư sâu sắc của người vợ dành cho người chồng đang chiến đấu ở chiến trường càng trở nên mạnh mẽ hơn khi nhìn thấy những tấm hình về anh trên màn hình. Những khoảnh khắc đầy cảm xúc khi một người đàn ông dũng cảm và kiên cường đang rời xa người thân để bảo vệ đất nước. Điều đó khiến cho người vợ càng yêu thương anh hơn, càng cảm thấy tự hào về anh hơn.
Chỉ mong gió xuân mang đi những lời yêu thương và những ký ức đẹp đẽ của người vợ đến cho người chồng đang chiến đấu. Cảm giác nhớ nhung, tình cảm sâu sắc của người vợ đang tràn ngập trong từng suy nghĩ của chàng, giúp cho anh có thêm sức mạnh và động lực để tiếp tục chiến đấu và giành chiến thắng.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Tác giả so sánh khoảng cách giữa hai nỗi nhớ như vũ trụ vô tận. Nhớ người yêu và đường đến gặp người yêu như là con đường lên trời. Câu thơ ý nghĩa và cô đọng, cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp là điều hiếm thấy trong văn chương nước ta thời trung đại.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Hai câu thất ngôn thể hiện sự tương phản sâu sắc, gợi lên cảm giác đau đớn và cay đắng của cuộc sống. Đất trời bao la, bát ngát, nhưng liệu có ai thấu hiểu được nỗi đau lòng của người chinh phụ đang chịu đựng? Như người xưa đã nói: “trời cao đất dày”, nhưng niềm uất ức và nỗi đau này, ai có thể ngỏ lời cùng chia sẻ? Vì thế, nỗi đớn đau này càng cuộn tròn và trở nên tột cùng, gây ra sự đau đớn cho thể xác.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Sự tương đồng giữa con người và thiên nhiên làm cho nỗi đau trở nên đầy cảm xúc và sâu sắc. Cảnh vật xung quanh nhân vật nữ chính trở thành phản ánh của tâm trạng bị đầy nước mắt, đau buồn và cô đơn. Sự giá lạnh của tâm hồn người phụ nữ tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Những giọt sương và âm thanh của côn trùng trong đêm mưa gió tạo nên những cơn bão và thảm kịch trong tâm trí của người phụ nữ. Tình huống và tâm trạng này phản ánh bi kịch của phụ nữ không được sống hạnh phúc trong xã hội cũ và lời lên án chiến tranh của tác giả.
Bầu trời rộng lớn, nỗi nhớ không giống nhau, nhưng suy nghĩ có giới hạn. Người phụ nữ quay trở lại với thực tế cuộc sống khắc nghiệt của mình. Ý tưởng thơ từ tình yêu chuyển sang cảnh vật. Thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, nhưng lại thấm đến tận tâm hồn của người phụ nữ cô đơn.
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.
Người chinh phụ đã nhận ra sức tàn phá của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên, khi chuông chùa vang lên, không khí đã dễ chịu hơn. Người chinh phụ cảm thấy thất vọng nhưng chưa tuyệt vọng hoàn toàn.
Tám câu cuối là bức tranh miêu tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!
Cảm xúc trong ý thơ lên xuống tùy theo tình cảnh, thể hiện tâm trạng của người chinh phụ khi cô đơn và hoài nghi về tình yêu. Cảnh hoa – nguyệt giao hòa làm cho người đọc cảm thấy rạo rực, khao khát hạnh phúc của lứa đôi. Dùng các từ dãi và lồng để thể hiện tình cảm giữa hai người một cách tế nhị, kín đáo.
Tác giả sử dụng từ và nhạc điệu rất tinh tế để miêu tả những diễn biến phức tạp trong tâm trạng của người chinh phụ. Cảnh và tình cảm được miêu tả tương xứng với tâm trạng của nhân vật.
Tác giả đã ca ngợi hạnh phúc của tình yêu và phản đối chiến tranh phi nghĩa qua tâm trạng đau buồn của một người chinh phụ bị lãng quên trong những cuộc đấu tranh quyền lực. Tác phẩm Chinh phụ ngâm thể hiện tư tưởng quyền sống và hạnh phúc của con người.
3. Cảm nhận Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ chọn lọc:
Chinh phụ ngâm là tác phẩm được sáng tác bằng chữ Hán bởi Đặng Trần Côn và được dịch sang bản Nôm bởi Đoàn Thị Điểm. Tác phẩm này được viết trước thế kỉ XVIII, đầy cảm xúc và tình cảm, thể hiện sự phẫn uất trước chiến tranh phi nghĩa và mong muốn tình yêu và hạnh phúc. Bản dịch đầy tài năng đã thể hiện được sự tinh tế và phức tạp của trạng thái tâm lí của người vợ nhớ chồng.
Người chinh phụ trầm lắng với dòng dõi quý tộc, mong ngóng chồng quay về với danh vọng và giàu sang. Nhưng trong cô đơn, nàng nhận ra tuổi thanh xuân đã trôi qua và hạnh phúc của đôi lứa càng xa vời. Tâm trạng cô đơn của người chinh phụ được thể hiện qua khúc ngâm và miêu tả đợi chồng.
Thời đại Cảnh Hưng diễn ra nhiều cuộc chiến tranh liên tiếp giữa các đại tướng Lê, Mạc, Trịnh và Nguyễn, dẫn đến việc chia đất nước thành hai phần và khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Cuộc sống của nhân dân đầy khổ đau với chiến tranh, xa cách gia đình và người thân. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất thối nát của chế độ phong kiến và nỗi đau khổ của con người. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã nhận được sự đồng cảm của nhiều nho sĩ. Bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm được coi là thành công nhất vì dịch giả đã thể hiện được sự đồng cảm sâu sắc trong tác phẩm đó.
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiễn bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Sau những ngày chờ chồng thất vọng, người phụ nữ này cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng và than phiền về chiến tranh phong kiến. Tác phẩm này trung tâm quanh tâm trạng của người phụ nữ này và miêu tả nội tâm đầy biến động của cô ấy. Sự trông đợi và vô vọng đã khiến cô ấy quên mất cả công việc điểm phấn tô son, công việc quan trọng nhất của người phụ nữ nơi gác tía lầu son như cô ấy.
Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng,
Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Nỗi đau của người vợ đang đợi chồng đi chiến trận đã làm nàng suy sụp, như người mộng du trong nhà của mình.
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Sự chờ đợi vô vọng đã làm cho tinh thần của người phụ nữ tê liệt. Tác giả đã miêu tả rất sinh động sự phức tạp của thế giới tâm lý bên trong người phụ nữ thông qua diễn tả về ngoại hình của cô ấy. Cô ấy trông mệt mỏi và buông xuống, và sự cô đơn đã gây ảnh hưởng đến cả tâm trí lẫn thể chất của cô ấy, khiến cô ấy trắng bệch và mờ nhạt. Sự cô đơn bao phủ cả không gian và thời gian, ngày và đêm, cả bên trong và bên ngoài căn phòng. Chỉ có người phụ nữ đang đối diện với ngọn đèn, làm nổi bật trạng thái cô đơn và thảm hại của cô ấy. Hình ảnh này rõ ràng thể hiện sự cô đơn của cô ấy:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Trong cõi tĩnh mịch của đêm, tiếng bước chân chậm rãi như thả vào lòng người âm thanh lẻ loi. Pu-skin trên con đường mùa đông vắng vẻ, cô đơn hơn bởi tiếng lục lạc đơn điệu thì người chinh phụ cô đơn hơn. Nỗi đau đớn âm thầm nhưng quá lớn ấy khiến nàng khao khát có sự đồng cảm. Nhưng chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng mà thôi. Liệu ngọn đèn có thấu hiểu được không hay sức nặng của nỗi cô đơn, của sự nhung nhớ lại dồn cả lên nàng. Ngọn đèn chỉ là vật vô tri vô giác, “có biết dường bằng chẳng biết”.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Cảnh vật đau lòng, phản ánh nỗi đau sầu của người phụ nữ. Sự chờ đợi trở nên vô vọng khi người thân không trở về. Người phụ nữ nhớ nhung mãi vì đã mất đi người thân.
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Dịch giả đã dùng từ ngữ thuần Việt như “eo óc”, “phất phơ” để miêu tả cảnh và tình trạng cô độc, buồn rầu của người thiếu phụ. Nó vừa gợi hình ảnh vừa gợi cảm xúc. Dáng hoè phất qua tạo hình ảnh người chinh phụ vật vã trong nhớ nhung giữa đêm khuya. Thuý Kiều đợi chờ Kim Trọng, nhưng thời gian trôi qua rất chậm. Nàng cô đơn trong bóng tối của cây hoè.
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!
Giống như tâm trạng người chinh phụ chờ chồng mòn mỏi:
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Người chinh phụ nhỏ bé, đơn độc trước không gian và thời gian. Nàng cố gắng vượt qua nỗi cô đơn bằng cách điểm phấn tô son và dạo đàn. Nhưng càng vùng vẫy, nàng càng lún sâu vào tuyệt vọng. Nỗi đau, tủi hờn của người chinh phụ thể hiện nỗi khao khát hạnh phúc. Tác giả và dịch giả thể hiện tinh tế trạng thái tâm lý phức tạp của người thiếu phụ, phản ánh thái độ trước những cuộc chiến tranh, binh biến liên miên dưới chế độ phong kiến thế kỉ XVIII. Tác phẩm không nói rõ cuộc chiến tranh mà người chinh phu tham gia, nhưng dựa trên điều kiện lịch sử có thể thấy đó không phải là cuộc chiến tranh vệ quốc, mà là cuộc chiến giành giật quyền lực của các tập đoàn phong kiến, những cuộc chiến phi nghĩa.
Dịch giả đã chọn thể thơ song thất lục bát để dịch Chinh phụ ngâm. Đây là một thể thơ dân tộc thích hợp để diễn tả tâm trạng của nhân vật, đặc biệt là tâm trạng buồn đau, sầu muộn. Dịch giả đã dịch nội dung của nguyên tác rất thanh thoát và chân thực, thể hiện nỗi buồn của người thiếu phụ phương Đông mãnh liệt nhưng kín đáo. Tác phẩm này đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngôn ngữ văn học dân tộc và chứng minh khả năng diễn tả tư tưởng tình cảm một cách sâu sắc, tinh tế của tiếng Việt.
Tác giả và dịch giả đã cất lên tiếng kêu nhân đạo và phản đối chiến tranh phi nghĩa thông qua tấm lòng thương yêu và sự cảm thông sâu sắc với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ. Thái độ phản chiến rất mạnh mẽ, cho thấy chiến tranh đã cướp đi hạnh phúc, tuổi trẻ và mạng sống của con người. Chiến tranh còn khiến nhiều người phụ nữ xa chồng, giam mình trong nỗi cô đơn và buồn tủi như người chinh phụ trong tác phẩm. Khi tóc đã pha sương, may mắn thì có người đón chồng trở về, nhưng đau xót thì có người không bao giờ được đón chồng trở về sau những ngày mỏi mòn trông đợi.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!