Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn thơ: “Thuyền ta lái gió với

Tham khảo Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn thơ: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng… Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.” (Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận), tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận ngắn gọn, chi tiết, hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!

Dàn ý Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn thơ: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng… Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.” (Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận)

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bồng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

(Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận)

Mở Bài

– Giới thiệu tác giả và tác phẩm

– Bài thơ là lời ca ngợi vẻ đẹp, sự giàu có của quê hương đất nước

– Trong đó, đặc sắc là ba khổ thơ miêu tả cảnh đánh bắt cá trên biển: “Thuyền ta… tự buổi nào”

Thân Bài

* “Thuyền ta … vây giăng”: Đoàn thuyền trên mặt biển lớn

– Hình ảnh đoàn thuyền giữa thiên nhiên rộng lớn

+ Hình ảnh nhân hóa “thuyền ta … biển bằng”: Đoàn thuyền của con người đang lướt đi dưới ánh trăng, hòa vào với thiên nhiên, mang tầm vóc kì vĩ

Đoàn thuyền của con người không còn nhỏ bé, mà mang tầm vóc lớn lao của vũ trụ => con người đã làm chủ thiên nhiên.

– Hình ảnh con người chuẩn bị chiến đấu với thiên nhiên bằng trí tuệ và năng lực của mình

+ “Dò bụng biển”: Con người đang tìm kiếm những đàn cá lớn giữa biển khơi bao la

+ “Dàn đan … giăng”: Con người đang dùng trí tuệ và năng lực của mình để có thể đánh bắt được mẻ cá lớn.

Khổ thơ là hình ảnh của con người trong tư thế hiên ngang, sánh ngang cùng vũ trụ bao la. Một hình ảnh đẹp vừa hiện thực lại cũng vừa lãng mạn.

* “Cá nhụ … Hạ Long”: Miêu tả các loài cá trên biển

– Biện pháp liệt kê: Liệt kê nhiều loại cá – những loài cá hiếm, đặc sản -> sự giàu có của biển cả.

– Hình ảnh “cá song … đen hồng”: Hình ảnh hiện thực được nhìn bằng con mắt lãng mạn của nhà thơ

+ Cá song vốn có đặc điểm cái đuôi màu đỏ đen được Huy Cận so sánh như mang ngọn đuốc -> sự so sánh đẹp và thực sự đặc sắc.

– Hình ảnh ánh trăng hòa cùng mặt nước lóng lánh “Cái đuôi … chóe”: “Vàng chóe” – màu vàng óng ánh, tươi mát.

– “Đêm thở: … Long”: hình ảnh nhân hoa đặc sắc nhất bài thơ

+ Sao, nước: Xuất hiện và tồn tại tại trong nhịp hơi thở của màn đêm

+ Hình ảnh thủy triều lên xuống như nhịp thở đều đặn của màn đêm -> nhịp thở của biển khơi.

=> Khổ thơ cho thấy sự giàu có của biển cả cùng với những sáng tạo độc đáo của Huy Cận trong nghệ thuật miêu tả các loại cá.

* ” Ta hát … tự buổi nào”: Miêu tả công cuộc đánh bắt cá và lòng biết ơn đối với mẹ thiên nhiên

– Bài ca gọi cá được cất lên như để xua đi cái mệt mỏi, vất vả

– Hành động “gõ thuyền”: dồn cá vào lưới. “Nhịp trăng cao”: vầng trăng làm nhịp phách đánh lên để người lao động cất lên tiếng hát ca

– Hình ảnh so sánh “biển … mẹ”: Biển như người mẹ bao dung và rộng lượng, giúp con người có thức ăn, lại giúp con người làm giàu thêm cho quê hương, đất nước.

– Lòng biết ơn với mẹ biển cả ” nuôi lớn … nào: Biển cả đã nuôi lớn con người lao động qua bao thế hệ.

-> Khổ thơ vừa là lời miêu tả cuộc đánh bắt cá vừa là lời cảm thán biết ơn sâu sắc tới mẹ biển cả đã mang đến cho con người những nguồn tài nguyên vô giá.

* Kết luận chung: Ba khổ thơ là hình ảnh của con người trong công cuộc đánh bắt cá giữa biển khơi.

– Nó đã tái hiện bức tranh con người lao động giữa thiên nhiên rộng lớn vừa đẹp lại vừa hùng vĩ sánh ngang với vũ trụ

– Đồng thời ca ngợi sự giàu có của biển cả cùng lòng biết ơn sâu sắc tới mẹ biển cả thiêng liêng nuôi sống bao thế hệ con người.

– Nghệ thuật được Huy Cận sử dụng vô cùng nhuần nhuyễn: so sánh, nhân hóa, … mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc về bức tranh thiên nhiên con người giàu màu sắc và âm thanh.

Kết Luận:

– Ba khổ thơ trên trong Đoàn thuyền đánh cá đã tái hiện bút pháp tài hoa của Huy Cận

– Đó là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ hòa quyện cùng con người lao động

– Ông xứng danh là một nhà thơ lớn trong nền thơ ca Việt.

Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn thơ: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng… Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.” (Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận) – Bài mẫu 1

Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn thơ: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng… Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.” (Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận) ngắn gọn nhất

Có ai đó từng cho rằng: một trong những nguồn gốc quan trọng của thơ ca chính là đời sống lao động của nhân dân. Điều đó hẳn đúng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. Bài thơ thực sự cất lên từ nhịp sống lao động hăng say, khoáng đạt của những người dân vùng chài. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp và mối giao hòa giữa con người và thiên nhiên trên cái nền lộng lẫy, tráng lệ của vũ trụ biển cả. Đoạn thơ sau trong bài thơ tiêu biểu cho điều đó:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bồng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

Bài thơ được sáng tác trong chuyến đi công tác của Huy Cận tại vùng mỏ Hòn Gai, Quảng Ninh năm 1958 và được bắt nguồn từ cảm hứng ngợi ca công cuộc xây dựng chú nghĩa xã hội của miền Bắc tự do độc lập. Với ý nghĩa đó, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là khúc tráng ca, ca ngợi con người laò động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.

Ba khổ thơ trên nằm giữa bài thơ. Mở đầu bài thơ là hình ảnh hoàng hôn trên biển và những con thuyền đánh cá ra khơi. Người dân chài đến với biên lớn bằng một tinh thần lao động hăng say và tâm hồn khỏe khoắn “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Và biển cá bào la giàu có phóng khoáng dang tay đón họ:

“Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”.

Những khố thơ trên nối tiếp mạch cảm xúc đó.

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Thuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong đêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hướng sức mạnh của trăng: Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kỳ vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:

Đọc thêm:  Dàn ý nghệ thuật miêu tả tâm lí của Kim Lân qua nhân ... - Thủ thuật

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng

Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển như hẹp lại đề con người “ra đậu dặm xa”, “dàn đan thế trận” và “dò bụng biển” để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao động như một chiến sĩ.

Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chỉ giàu mà biển còn rất đẹp:

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé

Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyến động dưới ngọn đuốc. Hình ảnh ấy cũng từng gợi hứng cho nhà thơ Chế Lan Viên viết nên câu thơ kì tài: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”. Có thể nói, với hình ảnh cá song, hai nhà thơ khôrig chỉ gặp nhau ở sức liên tưởng mà còn “cùng chí hướng” ở cảm hứng sáng tác: nghệ thuật bắt nguồn từ hiện thực, từ đời sống lao động của quần chúng nhân dân.

Đoạn thơ mang nhiều sắc ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh của cá song, ánh sáng vàng choé của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hoà cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu. Trong niềm xúc động, nhà thơ như thấy đâu đây hình ảnh những nàng tiên cá thần kì và do đó, Huy Cận đã viết một câu thơ thật thi vị, hữu tình: “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Hình ảnh ấy càng được tôn lên bội phần bởi một liên tương tài tình:

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long

Hình ảnh nhân hoá thật độc đáo. Đêm vẫn thư giãn và thủy triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mặt nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng triều đập vào bãi cát được ví như: “lùa nước Hạ Long”. Sao với nước cũng Xuất hiện và tồn tại trong nhịp thở của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kỳ ảo.

Tiếng hát theo những người dân chài trong suốt cả cuộc hành trình và giờ đây tiếng hát cất lên là đế gọi cá vào lưới:

Ta hát hài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Người dân gọi cá bằng tiếng hát và trăng tạo ra nhịp gõ. Động tác lao động bình thường: gõ nhịp vào mạn thuyền để dồn cá, qua lăng kính cảm xúc bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Trăng lên cao dần từng lúc, trăng tan vào nước biến, vỗ vào mạn thuyền làm nhịp hay con thuyền đang lướt dập dềnh bồng bềnh giữa biển khơi như chạm vỡ ánh trăng tạo thành nhịp. Công việc đánh bắt cá từ nặng nhọc bỗng trở nên thi vị lâng mạn. Từ sự giàu đẹp của biển là những suy ngẫm về lòng biển bao dung:

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào

Nhà thơ Huy Cận đã thật tài tình khi so sánh lòng biển với “lòng mẹ”. Biển cả dữ dội và bao la và lòng biên thẳm sâu không còn là điều kì bí, đáng sợ. Với nhà thơ, lòng biến mênh mông, rộng rãi đầy cá như tấm lòng mẹ bao dung, độ lượng. Chính lòng biển là lòng mẹ đã “nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Câu thơ là khúc tâm tình thiết tha với biển thân yêu, là lời cảm ơn biển, biển vừa bao la mà lại trĩu nặng yêu thương.

Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kỳ miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung.

Ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, ngợi ca cuộc sống tưng bừng niềm vui xây dựng, bài thơ thực sự là tiếng hát cât lên từ hồn thơ Huy Cận đế dâng tặng cuộc đời. Mang trong mình cả phong vị cố điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cảm hứng vũ trụ hoà cùng dòng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa.

Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn thơ: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng… Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.” (Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận) – Bài mẫu 2

Huy Cận là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam, đặc biệt là trong phong trào Thơ mới. Thơ của ông luôn có một phong cách rất riêng với những nhà thơ khác. Tiêu biểu cho các tác phẩm của ông trong thời kì mới là bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Bài thơ là lời ca ngợi thiên nhiên và con người lao động Việt Nam thời kì đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đoàn thuyền đánh cá có những hình ảnh thơ vô cùng đẹp đẽ, đặc biệt là ba khổ thơ:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng …

Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”

Ba khổ thơ trên là bức tranh thiên nhiên và con người lao động giữa biển khơi mênh mông. Đó là hình ảnh của những con người đang cố gắng hết sức mình đánh bắt từng đàn cá lớn để làm giàu cho quê hương đất nước. Hình ảnh những con người đang lao động giữa biển khơi to lớn thật hào hùng, kiên cường và mạnh mẽ biết bao.

Bài thơ là sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn. Thế nên, khi viết về những người lao động đang ra khơi đánh bắt cá, Huy Cận đã vẽ ra một khung cảnh lãng mạn vô cùng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Đoàn thuyền của con người đang lướt đi dưới ánh trăng vàng đang chiếu trên mắt biển long lanh. Vốn đoàn thuyền ấy chỉ là những con thuyền nhỏ bé, bình thường, thế nhưng giờ đây nó đang dần trở lên khổng lồ, to lớn, để hòa nhập với kích thước bao la của vũ trụ. Con thuyền ấy giờ đây có bánh lái là gió, có cánh buồm là ánh trăng vàng, đang lướt đi thật nhẹ giữa mênh mông không trung bao la. Những hình ảnh “lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng” đã biến đổi đoàn thuyền bình thường trở thành một đoàn thuyền của vũ trụ, vừa to lớn, kì vĩ, lại vừa đẹp lộng lẫy dưới ánh trăng. Giữa lúc này đây, dường như không trung vô tận kia đang hòa cùng với mặt biển làm một thể thống nhất đưa con thuyền trôi ra ngoài dặm xa. Ở ngoài đây, con thuyền đang chăm chú đậu lại, để “dò bụng biển”. Hành động dò tìm này phải chăng là hành động tìm kiếm những đàn cá lớn, tìm tòi những điều bí ẩn thế giới biển cả để đánh bắt, để học hỏi của những người ngư dân trên biển? Hành động ấy vừa để phát hiện ra luồng cá lớn vừa như để thăm dò ẩn ý của mẹ biển cả, liệu người có bằng lòng để chúng con được mang về thật nhiều cá lớn mà làm giàu cho quê hương? Con người và thiên nhiên ở đây hiện lên đều thật hùng vĩ và to lớn. Con người chẳng phải là những vật thể nhỏ bé giữa vũ trụ biển cả bao la nữa, mà họ cũng vụt trở lên thật to lớn, thật sinh động vô cùng. Họ đang trong tư thế làm chủ thiên nhiên, bởi vậy nên họ mới mạnh dạn “dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Đây là một hành động chuẩn bị cho việc đánh bắt một mẻ cá lớn.

Đọc thêm:  Đoạn văn Tả về Bác Hồ - Văn tả người lớp 5 - VnDoc.com

Huy Cận đã vẽ lên một bức tranh với thiên nhiên và con người lao động cùng nhau hòa quyện. Thiên nhiên trong đó thật vừa rộng lớn, bao la, lại vừa đẹp đẽ muôn phần nhưng con người trong bức tranh ấy của Huy Cận chẳng còn là những chủ thể yếu đuối trước thiên nhiên vũ trụ nữa. Ở đây, trong bức tranh này, họ đang đứng hiên ngang trước thiên nhiên, làm chủ thiên nhiên, sánh ngang tầm với thiên nhiên, dù thiên nhiên ấy còn biết bao điều bí ẩn mà họ chưa khám phá được hết. Thế mới hiểu rõ, con người Việt Nam sau chiến tranh đã trưởng thành, lớn lao, mạnh mẽ, kiên cường như thế nào trước bao sóng gió bão tố!

Bước sang một khổ thơ khác, người đọc chúng ta lại được Huy Cận dẫn tới một bức tranh khác. Bức tranh ấy vẫn là chủ đề thiên nhiên, thế nhưng thiên nhiên trong đó không chỉ có mỗi ánh trăng vàng, mặt biển xanh mà giờ đây nó còn lấp lánh đầy sắc màu khác nữa. Đó là sắc màu của những loài cá biển:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

Quả là một bức tranh rực rỡ sắc màu và thật sống động. Nào là màu lấp lánh, “vàng chóe”, nào đen, nào hồng,… đủ màu đủ sắc, đủ thanh âm, thật đặc sắc biết chừng nào! Khổ thơ mở đầu bằng một loạt tên của những loài cá biển vốn là những loài cá đặc biệt chỉ có của vùng biển Hòn Gai, Quảng Ninh. Nào cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song – toàn là những loài cá đặc sản, thế mới thấy được biển cả Việt Nam giàu có, phong phú đến nhường nào! Không chỉ vậy, biển cả còn hiện lên thật đẹp khi:

“Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”

Cá song – một loài cá đặc sản của vùng biển Việt Nam, với đặc trưng là chiếc đuôi đen đỏ, giờ đây trong con mắt đa tình của người thi sĩ, nó bỗng trở thành một bó đuốc giữa lòng biển khơi. Bó đuốc ấy thắp sáng lên cả một vùng biển rộng tăm tối, để vùng biển ấy vụt sáng lên, óng ánh lên thứ ánh đuốc đen hồng. Chưa từng có trong thi ca một hình ảnh so sánh mĩ miều đến vậy! Phải là người có trí tưởng tượng thật phong phú, đôi mắt quan sát thật tinh tường thì Huy Cận mới có thể nhận ra được cái thứ đặc trưng đặc sắc này của mỗi loài cá biển. Không chỉ thắp lên một ánh đuốc sáng bừng cả đại dương, trong mắt Huy Cận, những chú cá biển ấy như những cô em gái lém lỉnh, tinh nghịch, đang quẫy thật mạnh chiếc đuôi lóng lánh của mình trên mặt nước. Và thế là, giữa mặt nước mênh mông, ánh trăng “vàng chóe” bắn lên không trung vừa đẹp lóng lánh, lại tươi mát lạ lùng. Ở đây Huy Cận đã dùng một tính từ tả màu sắc rất nổi bật “vàng chóe” – thứ ánh vàng vừa óng ánh lại vừa đặc biệt, nó đã làm câu thơ bật lên nghe rất âm vang. Kết lại khổ thơ, Huy Cận viết:

“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

Đây là một hình ảnh nhân hóa, nhưng lại độc đáo một cách thật thú vị. Màn đêm đang thở, đang dùng những nhịp thở của mình để thổi vào không gian tĩnh mịch của biển cả bao la. Cái tiếng thở ấy của đêm phải chăng là âm thanh của tiếng nước thủy triều đang nhấp nhô nâng hạ? Từng đợt thủy triều cuốn vào bờ cát rồi lại chạy thật nhanh ra xa và Huy Cận như cảm thấy như màn đêm đang phập phồng hơi thở: sao lùa nước Hạ Long? Những miền, những chiều không gian khác nhau nhưng lại được Huy Cận nối lại thành một cách liền mạch. Không gian của đêm, của biển, của sao trời và ánh trăng đã nối thành một điểm và ở giữa điểm đó là hình ảnh của những con người lao động đang miệt mài với công việc của mình.

Cả khổ thơ là lời ca ngợi của Huy Cận đối với sự giàu có của biển cả mênh mông. Bằng con mắt của nhà thi sĩ yêu đời, Huy Cận đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên cùng muôn vàn loài cá khác nhau thật đẹp đẽ. Bức tranh ấy vừa đầy màu sắc, nhưng lại không kém phần lung linh, sinh động biết bao.

Những câu hát của người dân làng chài đã vang lên như một bản nhạc từ những câu thơ đầu tiên, và giờ đây nó lại tiếp tục vang lên thêm lần nữa:

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”

Nếu như những câu hát đầu tiên ở những khổ thơ đầu là những câu hát để căng lên tấm buồm lớn lướt thật nhanh ra khỏi thì ở đây, những câu hát này lại là những câu hát “gọi cá vào”. Những lời ca vang lên thật rõ trong không trung tĩnh lặng của màn đêm và biển cả. Cùng với tiếng nhịp phách gõ vào mạn thuyền, đó là bài ca gọi cá đến hay chính là những thanh âm mà người dân chài dùng để dồn cá vào lưới? Hòa quyện trong câu hát ấy là ánh trăng trên cao vời vợi, ánh trăng soi tỏ từng hành động của con người, ánh trăng như gõ nhịp cho con người, cổ vũ họ trong cuộc chiến với thiên nhiên. Từng nhịp cá vang lên dồn dập, càng cho thấy mẻ cá vào lưới càng nặng tay – một mùa cá bội thu. Con thuyền bồng bềnh trôi trên sóng nước với ánh trăng vàng làm bạn, với lời ca vang như tiếp thêm sức mạnh để những người ngư dân thêm sức mạnh để kéo những mẻ lưới đầy.

Nhìn từng mẻ lưới nặng tay của họ, Huy Cận chợt có những suy ngẫm thật lặng về biển cả:

“Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”

Biển ở đây được Huy Cận ví như một người mẹ. Một người mẹ luôn bao dung, che chở cho những đứa con của mình, một người mẹ sẽ luôn dành cho những đứa con những gì tốt đẹp nhất, và luôn luôn là vậy, như câu thơ “nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, chẳng bao giờ vơi cạn. Thật vậy, “biển cho ta cá”, luôn hào phóng với chúng ta, không bao giờ giữa lại gì cho riêng mình. Đây là một hình ảnh so sánh thật tài tình, mang đầy lòng biết ơn, kính trọng của Huy Cận với mẹ biển cả, với sự hào phóng của thiên nhiên. Biển đã cho ta, nuôi ta lớn khôn từ những ngày ta còn thơ bé, nuôi lớn chúng ta qua bao thế hệ con người. Phải, chúng ta thực lòng phải cảm tạ biển cả mênh mông đã cho ta của cải, nuôi lớn ta, giúp ta làm giàu cho quê hương đất nước. Lời thơ vang lên như lời tâm tình, như lời thủ thỉ của con người dành cho mẹ biển bao la. Đó là lời cảm ơn, lời biết ơn sâu sắc gửi tới biển, bởi biển hào phóng quá, yêu thương trìu mến quá!

Khép lại khổ thơ, chúng ta cảm nhận được sự miệt mài của những người dân chài lưới trước công việc của mình. Đồng thời, chúng ta cũng cảm nhận được sự kính yêu của họ đối với biển cả, sự biết ơn, yêu thương trìu mến của họ dành cho biển. Với họ, biển là mẹ, là một phần máu thịt gần gũi thân thương đối với họ.

Ba khổ thơ là hình ảnh của thiên nhiên và con người trong công cuộc đánh bắt cá. Nõ vừa đẹp lãng mạn lại vữa mang một màu sắc hiện thực thật rõ ràng. Có thể nói, Huy Cận đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên và những người dân chài thật đầy màu sắc. Cùng với đó, nghệ thuật mà Huy Cận sử dụng trong đoạn thơ trên như so sánh, liệt kê, nhân hóa cũng góp phần tạo nên đặc sắc cũng như thành công cho đoạn thơ.

Đọc thêm:  Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài trong

Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn thơ: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng… Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.” (Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận) – Bài mẫu 3

Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn thơ: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng… Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.” (Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận) ngắn gọn nhất (ảnh 2)

Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ hay của nhà thơ Huy Cận. Bài thơ được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến nhà thơ đi thực tế ở Hồng Gai giữa lúc miền Bắc nước ta phấn khởi bước vào công cuộc lao động xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Bài thơ gồm bảy khổ thơ miêu tả nhiều cảnh của một chuyến ra khơi đánh cá của một đoàn thuyền từ lúc mặt trời xuống chiều hôm trước đến tận lúc mặt trời đội biển nhô màu mới sáng hôm sau mới trở về. Trong đó bốn khổ thơ miêu tả cảnh đánh cá trên biển của đoàn thuyền là hay và đặc sắc hơn cả.

Mở đầu đoạn thơ, ta thấy hình ảnh một đoàn thuyền đánh cá bề thế, hùng dũng đang băng băng lướt sóng:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển vàng.

Đoàn thuyền ấy có gió làm lái, có trăng làm buồm. Dương như thiên nhiên cùng hòa vào không khí lao động khẩn trương của đoàn thuyền. Đoàn thuyền ấy lướt giữa mây cao với biển bằng, lướt giữa một không gian bao la khoáng đạt. Thiên nhiên như mở ra, bát ngát, mênh mông, trên là trời cao có trăng sáng tỏ, dưới là biển rộng bao la và ở giữa là đoàn thuyền đang lướt rất nhanh giữa khoáng không cao rộng ây. Con thuyền như hòa nhập vào thiên nhiên, nhưng không mất hút trong thiên nhiên. Giữa không gian bao la, cơn thuyền không hề bị lấn át, không hề trở nên nhỏ bé, trái lại trở thành một hình ánh trung tâm vừa đẹp vừa khỏe khoắn, vừa nên thơ. Đoàn thuyền càng đẹp, càng thơ khi gió biển thổi làm lái dẫn thuyền và trăng đậu trên cánh buồm khiến tác giả tưởng như trăng làm buồm đựng gió kéo thuyền lướt sóng. Con thuyền không phái chí của ta, của con người mà đã trở thành của cả thiên nhiên. Dường như thiên nhiên đã cùng với con người, thay thế con người chỉ huy điều khiển con thuyền. Nếu như ở đoạn đầu, thiên nhiên đã chìm vào trạng thái nghỉ ngơi mặt trời xuống biển, sóng đã cài then, đêm sập cửa, thì ở đây con người đã đánh thức thiên nhiên, làm sống động vũ trụ, đế thiên nhiên, vũ trụ cùng lao động với con người Lòng tin yêu con người, trí tưởng tượng bay bổng đà giúp nhà thơ xây dựng được một hình ảnh thơ tuyệt đẹp và nhiều ý nghĩa.

Hai câu thơ tiếp đà miêu tả cụ thể những công việc của đoàn thuyền đánh cá:

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Công việc đầu tiên của những người đánh cá là đi tìm luồng cá trong lòng biển. Và giữa biển khơi mênh mông khi đã tìm được luồng cá, những chiếc thuyền tỏa ra, thả lưới bủa vây. Đó là những công việc, những hoạt động bình thường của người dán chãi. Nhưng qua cách miêu tả của tác giả, ta thây những hoạt động đó giống như những hoạt động chuẩn bị cho một trận đánh. Người dân chài bước vào lao động bình thường như bước vào mít trận chiến đấu với vũ khí là những tấm lưới, với sức khỏe của cơ bắp, với trí thông minh và với tám thế của người đã nắm chắc phần thắng.

Lưới đã thả và đàn cá hiện ra. Những con cá dược nhà thơ miêu tả thật đẹp: Cá nhụ, cá chim cùng cá dé. Cá có rất nhiều loại và ta có thể nhận thấy, đó là những loại cá rất quý. Trong tầm nhìn, từng đàn cá đông đúc. Dưới ánh trăng, thân hình cá lấp lánh lung linh, và giữa các đàn cá đó, nổi bật lên hình ảnh:

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Huy Câu thơ đã cho ta thấy đầy đủ sắc màu rực rỡ của cá song. Đặc biệt hình ảnh đuôi cá được miêu tả thật độc đáo

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.

Giữa muôn ngàn cá, con nào cũng đẹp, nhưng cá song nổi bật lên không chỉ ở màu sắc rực rỡ như ngọn đuốc lung linh mà còn ở cử động mền mại, uyển chuyển như múa. Cử động của cá làm cho trăng đẹp hơn, sáng hơn. Chính cử động ấy đã tạo nên nét thơ mộng làm tâm hồn nhà thơ rung động và bật lên tiếng em trìu mến. Trăng đã lên cao, cá đang vào lưới. Người đánh cá cất cao tiếng hát để gọi cá:

Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

Cùng với tiếng hát, ánh trăng cùng gõ vào mạn thuyền làm nhịp cho lời hát. Trăng trên cao rất sang in hình xuống nước. Nước biển, ánh trăng với sóng như gõ nhịp vào mạn thuyền xua ca Ị lình anh vừa thực vừa hư ao do 111 tương tương phong phu cua nhà thơ sáng tạo nên làm cho cảnh lao động vừa đẹp, vừa nên thơ, vừa vui và mang nhiều ý nghĩa. Đắm mình trong canh lao động thơ mộng đó, nha thơ nhân thay biến như lòng mẹ. Mẹ là người sinh ra ta, nuôi nấng, dạy bao ta. Biên cung vậy, biển cho ta cá như nguồn sữa mẹ nuôi lớn đời ta:

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta từ thuở nào.

Biển được so sánh như lòng mẹ, biển luôn luôn ưu ái con người. Ta thấy ở đây toát lên lòng yêu mến, biết ơn biển cả của những người đánh cá và của cả nhà thơ. Cá sa vào lưới, trời cũng là chuyển dần về sáng. Mọi hoạt động càng trở nên khẩn trương gấp rút hơn:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

Lưới xếp, buồm lên đón nắng hồng…

Sao mờ đi, trời sắp sáng. Mẻ lưới cuối cùng được kéo lên. Công việc không nhẹ nhàng chút nào. Người dân chài phải “xoăn tay” kéo lưới vì mẻ lưới đầy cá. Hình ảnh đàn cá trong lưới rực rỡ sắc màu tươi rói lấp lánh ánh bình minh vừa thể hiện sự giàu đẹp của biển quê hương, vừa thể hiện hiệu quả của buổi lao động. Và giờ đây công việc đã kết thúc, lưới xếp vào khoang thuyền, buồm lại căng lên rạng rỡ đón ánh nắng mặt trời.

Thực ra bài thơ có thể kết thúc ở đây vì hình tượng thơ đã được phát triển nâng cao trọn vẹn. Cả đoạn thơ là bức tranh sơn mài rực rỡ sắc màu, màu của trăng sao, sóng nước, màu của những con cá vảy bạc đuôi vàng, màu của những con cá vảy bạc đuôi vàng, màu của những con người lao động xoăn tay kéo lưới. Đoạn thơ với bút pháp vừa tả thực vừa lãng mạn, đã phối hợp hài hòa giữa cảnh thực với sức tưởng tượng bay bổng, giữa chất hiện thực và chất trữ tình, tạo nên những hình ảnh thơ lung linh kì vĩ vừa nhiều tầng bậc ý nghĩa, vừa thấm đậm tình người. Qua đó hình ảnh những người dân chài được nâng lên ngang tầm vũ trụ và công việc đánh cá trở thành công việc nên thơ.

Trước Cách mạng, thơ Huy Cận thường mang một nỗi buồn u uất. Nhưng từ khi trớ thành nhà thơ cách mạng, Huy Cận say sưa ca ngợi con người mới, cuộc sống mới nên thơ ông trở nên ấm áp, đằm thắm và dào dạt niềm vui. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời trong mạch cảm xúc ấy nên có thể xem đó là một món quà đặc biệt của vùng mỏ Hồng Gai – Cẩm Phả cho vào tủ thơ Huy Cận”. (Xuân Diệu)

-/-

Thông qua dàn ý và một số bài văn mẫu Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn thơ: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng… Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.” (Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận) tiêu biểu được Top lời giải tuyển chọn từ những bài viết xuất sắc của các bạn học sinh. Mong rằng các em sẽ có khoảng thời gian vui vẻ và hữu ích khi học môn Văn!

Đánh giá bài viết

Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!

Dustin Đỗ

Tôi là Dustin Đỗ, tốt nghiệp trường ĐH Harvard. Hiện tôi là quản trị viên cho website: www.hql-neu.edu.vn. Hi vọng mọi kiến thức chuyên sâu của tôi có thể giúp các bạn trong quá trình học tập!!!

Related Articles

Back to top button