Chứng minh rằng Tình yêu quê hương đất nước là một khoảng rộng

Văn mẫu lớp 8: Em hãy chứng minh rằng “Tình yêu quê hương đất nước là một khoảng rộng trong trái tim của thơ mới” dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu nhằm giúp các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

Dàn ý chứng minh rằng Tình yêu quê hương đất nước là một khoảng rộng trong trái tim của thơ mới

1. Mở bài:

– Giới thiệu về phong trào thơ mới

2. Thân bài:

a. Hoàn cảnh ra đời:

– Ra đời trong thời kỳ Pháp thuộc, dưới chế độ thực dân nửa phong kiến.

– Người dân chìm trong nô lệ, đau thương và lầm than

– Bất lực với thực tại, các nhà thơ mới gửi gắm qua thơ, với các bài thơ tiêu biểu Nhớ rừng – Thế Lữ, Quê hương – Tế Hanh, Ông đồ – Vũ Đình Liên.

b. Các biểu hiện của tình yêu nước:

* Ca ngợi thiên nhiên đất nước:

– Hình ảnh của núi rừng ngàn năm oai linh trong Nhớ rừng:

+ Bức tranh tứ bình đẹp rực rỡ, lộng lẫy.

+ Hình ảnh của chúa sơn lâm oai nghiêm, hùng dũng.

– Hình ảnh quê hương miền biển trong Quê hương – Tế Hanh:

+ Mang một vẻ đẹp êm ả, thanh bình

+ Hình ảnh gần gũi, thân thiết, mang trong đó là nỗi nhớ quê hương da diết: “nhớ mùi nồng mặn”, …

* Hoài niệm về những thời vàng son của dân tộc:

– Thế hiện qua tác phẩm Ông đồ – Vũ Đình Liên

– Nhớ về một quá khứ vàng son của dân tộc khi mà thi cử thời phong kiến còn thịnh hành.

* Gửi gắm những nỗi niềm sâu kín:

– Hình ảnh con hổ nhớ rừng trong tác phẩm Nhớ rừng: đại diện cho những người dân Việt Nam ta dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, bị kìm kẹp, áp bức.

3. Kết bài:

– Mỗi nhà thơ mới đều có “cái tôi” riêng nhưng có chung một tình yêu đất nước.

Chứng minh rằng Tình yêu quê hương đất nước là một khoảng rộng trong trái tim của thơ mới mẫu 1

Đầu những năm 1930, Việt Nam xuất hiện một phong trào thơ mới, phi cổ điển, với những sáng tác mang cá tính riêng, độc đáo. Đó là phong trào thơ Mới. Nổi bật trong phong trào này là các nhà thơ lớn như Tế Hanh, Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, … Mỗi nhà thơ lại có phong cách riêng như Huy Cận thì buồn ảo não, Xuân Diệu thì đắm say, Thế Lữ “thoát lên tiên”, … Thế nhưng nhà thơ nào cũng cất giữ cho mình trong mỗi lời thơ là một tấm lòng, một tình yêu nước sâu nặng. Vậy nên có người đã nhận xét rằng “Tình yêu quê hương đất nước là một khoảng rộng trong trái tim của thơ mới”.

Phong trào thơ mới ra đời khi Pháp đã vào xâm lược Việt Nam biến Việt Nam thành chế độ thực dân nửa phong kiến. Các nhà thơ của phong trào thơ Mới được sinh ra trong hoàn cảnh này, họ thấu hiểu được cảnh nước mất nhà tan, họ chứng kiến cảnh người dân phải chịu sự nô lệ, cả đất nước chìm trong lầm than, đau đớn. Bất lực, chán ghét với thực tại, chưa tìm được lối thoát cho bản thân, họ tìm đến những vần thơ, gửi gắm vào trong đó nỗi niềm quê hương, đất nước. Qua các bài thơ như Quê hương – Tế Hanh, Ông đồ – Vũ Đình Liên, hay Nhớ rừng – Thế Lữ, ta đều thấy trong đó một tấm lòng nặng tình với quê hương.

Tình yêu quê hương đất nước của các nhà thơ mới thể hiện đầu tiên qua cách họ ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên của non sông. Đó là hình ảnh của rừng sâu núi thẳm với những bóng cây già, oai linh của ngàn năm đất nước trong tác phẩm Nhớ rừng của nhà thơ Thế Lữ:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”

Bức tranh tứ bình với màu sắc rực rỡ, lộng lẫy, chói lọi hiện lên qua từng vần thơ. Thế nhưng, tất cả chỉ để làm nền cho hình ảnh của chúa sơn lâm đang hiên ngang, dõng dạc giữa núi rừng. Tiếng chim ca hót rộn rã, tươi vui, tiếng mưa xối xả, tất cả đều mang một vẻ đẹp lãng mạn đầy kỳ vĩ. Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ mang một vẻ đẹp hùng vĩ nhưng không kém phần lộng lẫy của núi rừng.

Hay trong tác phẩm Quê hương của nhà thơ Tế Hanh, cảnh thiên nhiên non sông đất nước lại hiện lên qua một làng chài ven biển:

“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá:Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mãPhăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.Cánh buồm trương, to như mảnh hồn làngRướn thân trắng bao la thâu góp gió…”

Hình ảnh một làng chài yên bình, đầm ấm hiện lên qua từng vần thơ. Làng chài ấy nằm giữa biển, bao quanh bởi những con nước. Những người dân chài quanh năm quen với sóng gió sẽ “bơi thuyền” đi đánh cá vào những sớm “trời trong, gió nhẹ”. Giữa mênh mông sóng nước, chiếc buồm trắng tinh “rướn” lên “thâu” lấy ngọn gió mạnh.

Và khi đoàn thuyền trở về là cả dân làng nô nức, vui sướng đón những mẻ lưới đầy cả trong rạng ngời hạnh phúc. Khung cảnh đó sao yên bình, sao êm ả đến thế?

Đọc thêm:  Top 9 Bài phát biểu phụ huynh ngày tổng kết năm học hay và ý

“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗKhắp dân làng tấp nập đón ghe về.

“Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”,Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”

Tế Hanh đã miêu tả quê hương bằng những hình ảnh hết sức chân thực, gần gũi. Bức tranh quê hương miền biển của ông với những người dân lao động mang một vẻ đẹp hùng tráng, đầy hứng khởi và say mê. Không chỉ vậy, Tế Hanh còn mang trong lòng một nỗi nhớ da diết, nhớ mùi nồng mặn của biển, nhớ từng con “cá bạc”, từng chiếc “buồm vôi” bạc màu, …

“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớMàu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”

Phải yêu quê hương, nhớ quê hương sâu sắc đến mức nào mới có thể nhớ kĩ đến từng chi tiết như thế?

Yêu quê hương, không chỉ là ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước mà còn là nỗi hoài niệm về một miền xưa cũ, một dĩ vãng vàng son của dân tộc. Điều đó được nhà thơ Vũ Đình Liên thể hiện qua tác phẩm Ông đồ:

“Mỗi năm hoa đào nởLại thấy ông đồ giàBày mực Tàu, giấy đỏBên phố đông người quaBao nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tài:

“Hoa tay thảo những nétNhư phượng múa, rồng bay”

Vẻ đẹp quê hương không chỉ qua những cảnh vật mà còn qua những con người làm nên nét đẹp non sông. Hình ảnh ông đồ già ngồi trên phố cầm bút vẽ những nét “như rồng múa, phượng bay” đã trở thành một kỉ niệm khó quên trong lòng bất cứ người con nào của đất nước Việt Nam. Bởi hình ảnh ấy là thứ hình ảnh quen thuộc nhất mỗi khi xuân về, người người nô nức đi xin chữ, cầu may đầu năm. Thế nhưng, thời gian qua đi, khi những cái mới tràn đến cùng văn hoá Tây phương, cái thú “xin chữ” đầu năm bị vứt bỏ, bị gạt ra lề của xã hội trong niềm đau xót:

“Nhưng mỗi năm mỗi vắngNgười thuê viết nay đâu?Giấy đỏ buồn không thắmMực đọng trong nghiên sầu…Ông đồ vẫn ngồi đấyQua đường không ai hayLá vàng rơi trên giấyNgoài trời mưa bụi bay”

Vũ Đình Liên thương tiếc một thời đã qua, tiếc nhớ một dĩ vãng đã từng vàng son đến thế! Đó là bởi ông yêu quê hương, ông trân trọng những di sản, trân trọng những nét đẹp truyền thống của Việt Nam ta từ ngàn đời nay. Yêu quê hương chính là sự tiếc nhớ, hoài niệm những gì đẹp đẽ nhất của đất nước nay đã lụi tàn theo thời gian.

Những nhà thơ thuộc phong trào thơ Mới, họ yêu quê hương tha thiết, họ đau xót trước cảnh nước mất nhà tan nhưng đành bất lực. Chính vì vậy, họ đã gửi gắm những tâm sự thầm kín của mình qua những lời thơ. Trong tác phẩm Nhớ rừng, nhà thơ Thế Lữ đã mượn lời con hổ đang bị nhốt trong vườn bách thú khi nhớ về thời còn được vùng vẫy giữa chốn rừng xanh:

“- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

Trong lời than ấy, ta nghe được tiếng thở dài đau khổ của một người con đất Việt đang tiếc thương một thời vàng son của dân tộc, thời kỳ oanh liệt của cha ông khi ba lần đánh tan quân Mông – Nguyên xâm lược. Có thể nói hình ảnh của con hổ trong vườn bách thú chính là tình cảnh của người dân ta lúc bấy giờ dưới thời thực dân nửa phong kiến.

Mỗi nhà thơ trong phong trào thơ mới đều mang một “cái tôi” riêng biệt và độc đáo. Thế nhưng chung ở họ là tình yêu nước nồng nàn, sâu nặng được thể hiện qua từng vần thơ, qua từng lời gửi gắm thầm kín. Có thể tình yêu nước của các nhà thơ mới chưa mãnh liệt, chưa mạnh mẽ như trong thơ ca Cách mạng, vậy nhưng đó vẫn là “một khoảng rộng trong trái tim của thơ mới” mà chúng ta không thể nào bỏ quên được!

Chứng minh rằng Tình yêu quê hương đất nước là một khoảng rộng trong trái tim của thơ mới mẫu 2

Thơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các “hoàng tử thơ”: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v… Phong trào Thơ mới đã tạo nên một thời đại rực rỡ phong phú trong lịch sử văn học Việt Nam. Hoài Thanh đã viết trong Thi nhân Việt Nam: “… trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một kần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ. mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. Thơ mới là thời đại của những phong cách thơ độc đáo và một trong những nội dung tiêu biểu của thơ mới là tình yêu quê hương như một nhà nghiên cứu từng nhận xét: “Tình yêu quê hương đất nước là một khoảng rộng trong trái tim của thơ mới”.

Thơ mới ra đời trong hoàn cảnh đất nước chìm trong chế độ thực dân nửa phong kiến. Các nhà thơ mới nhận thức rõ nỗi đau mất nước, chán ghét thực tại nên họ gửi gắm nỗi niềm về đất nước, quê hương vào những vần thơ. Tình quê hương đất nước trong Thơ mới thể hiện ở nhiều cung bậc khác nhau: lúc ca ngợi cảnh đẹp của quê hương, lúc nhớ quê hương da diết, lúc hoài niệm ngưỡng mộ và tiếc nuối một nét đẹp văn hóa trong quá khứ, lúc gửi gắm niềm tâm sự thầm kín… Và một trong những bài thơ xuất sắc của phong trào thơ mới viết thành công với đề tài này, không thể không nhắc tới Thế Lữ với Nhớ rừng, Tế Hanh với Quê hương.

Đọc thêm:  Bài văn mẫu Nghị luận về câu nói Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu

Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ dựng lên hai khoảng không gian, đối lập: sự hùng vĩ của thiên nhiên và sự chật hẹp, tù túng của vườn bách thú nơi con hổ đang sống. Thiên nhiên trong bài thơ hiện lên thật đẹp đẽ, ấn tượng. Đó là cảnh bóng cả, cây già với những gió gào ngàn, nguồn hét núi:

“Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi”

Cảnh thiên nhiên ở nơi rừng xanh, nơi con hổ từng là chúa tể của muôn loài trái ngược với những cảnh giả tạo, bắt chước của vườn bách thú. Và đặc biệt, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, Thế Lữ đã rất thành công khi miêu tả hình ảnh bộ tranh tứ bình tinh xảo và độc đáo. Đầu tiên là bức tranh rừng núi trong đêm:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.”

Cảnh có màu vàng óng ả của trăng, màu xanh trong vắt của nước suối đại ngàn, màu trắng đen mờ ảo của cỏ cây hoa lá. Hổ ta đang đứng trên bờ, say sưa ngắm nhìn cảnh vật đẹp đến say lòng ấy. Ta có cảm giác hổ say mồi thì ít mà say đắm vẻ đẹp huyền ảo của đêm trăng thì nhiều. Vũ trụ có trăng, lúc khuyết, lúc tròn, lúc lên, lúc lặn để rồi hổ ta không biết bao lần ngây ngất trước ánh trăng vàng tung tóe. Nhớ làm sao những đêm vàng đấy mộng mơ ấy! Và giờ đây nó càng quý vô ngần vì nó là đêm của tự do và ảo mộng.

Bức tranh hai, Thế Lữ cho chúa tể rừng xanh đối diện với sự gào thét của thiên nhiên hùng vĩ vào những ngày mưa:

“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”

Mưa rừng không phải là “mưa bay như khói qua chiều”, không phải là “mưa giăng mắc cửi”, càng không phải là “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng” mà mịt mù, dữ dội rung chuyển cả núi rừng. Thế Lữ thật tài tình khi biết lấy sự gào thét dữ dội của thiên nhiên, sự ngã nghiêng của cây cối, cảnh tuôn rơi ồn ào của ngày mưa làm phông nền cho một hổ ta điềm nhiên lặng ngắm giang sơn đổi mới của mình. Quả là bức tranh của một nghệ sĩ kỳ tài.

tình yêu quê hươngCòn đây là một cảnh khác, tươi sáng, tưng bừng của buổi bình minh.Chúa tể rừng xanh lúc nầy đang ngon giấc:

“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”

Một buổi bình minh tinh khôi rạng rỡ, chim chóc reo ca, cây cối gọi mời, mọi vật đã thức giấc đón bình minh lên. Riêng hổ ta lại ngủ, một giấc ngủ lạ đời: giấc ngủ “tưng bừng”. Hổ có giấc ngủ riêng của hổ, cảnh vật xung quanh có ồn ào, sôi động bao nhiêu càng làm cho giấc ngủ hổ thêm say, giấc mơ hổ thêm đẹp. Chỉ bằng vài nét chấm phá má cảnh có âm thanh, có màu sắc, đường nét hài hòa, sống động. Bức tranh cuối cùng tuyệt đẹp, đẹp một cách lộng lẫy và bi tráng:

“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”

Bức tranh này khác hẳn với ba bức tranh trên, từ màu sắc, đường nét, đến ánh sáng. Màu vàng óng ả của trăng, màu đen mờ ảo của những trận mưa rừng, cả màu hồng tươi của nắng mới đều không còn nữa thay vào đó là màu đỏ rực của máu và của ánh mặt trời sắp tắt. Hổ ta lúc này cũng không còn say sưa, mơ mộng như đêm nào, ngày nào mà đã hiện nguyên hình là một mãnh thú. Bên hổ, dưới chân hổ là cảnh “lênh láng máu” của những con thú yếu hèn. Ngoài xa, trên bầu trời cao rộng mênh mông ấy mặt trời cũng chỉ là một mảnh. Ta có cảm giác mặt trời cũng bé đi qua cái nhìn của hổ. Trong bức tranh, mọi vật hình như nhỏ hơn, chìm hẳn chỉ có hổ ta đứng đấy uy nghi, chễm chệ với tư thế là chúa tể của muôn loài. Chúa sơn lâm đẹp thật, một vẻ đẹp dữ dằn ghê gớm của một mãnh thú đang say mồi.

Quả là một bộ tranh tứ bình hoàn hảo, với sự phối cảnh hài hòa, bố cục mỹ cảm, đường nét thanh tao, gam màu chuẩn xác. Thế Lữ đã để lại bộ tranh hổ bằng ngôn ngữ có một không hai trong lịch sử văn học.

Quả thật, bức tranh hoành tráng của rừng thẳm oai linh, của gió gào ngàn, nguồn hét núi, bóng cả, cây già. Trong cảnh thiên nhiên kỳ vĩ thâm nghiêm ấy làm nền cho hình bóng của chúa sơn lâm mang vẻ đẹp dõng dạc, đường hoàng với những đêm vàng, sáng xanh, chiều đỏ, tiếng chim ca tất cả mang vẻ đẹp lãng mạn, muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên của cách nhìn lãng mạn và bút pháp lãng mạn.

Nếu như thiên nhiên trong Nhớ rừng là vẻ đẹp của sự hùng tráng, mạnh mẽ của núi rừng, thì thiên nhiên trong thơ Tế Hanh lại êm đềm, đằm thắm với cảnh sông nước bình dị. Hình ảnh làng chài ven biển đẹp, trong trẻo thoáng đãng là tâm điểm mà nhà thơ muốn ca ngợi qua bài thơ Quê hương của mình.

Cái làng quê nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng đã nuôi dưỡng tâm hồn Tế Hanh, đã trở thành nguồn cảm xúc vô tận để ông viết nên những vần thơ tha thiết, lai láng như: Nhớ con sông quê hương, Quê hương, Trở lại con sông quê hương. Mở đầu bài thơ Quê hương, tác giả viết:

Đọc thêm:  Tả cây tràm lớp 4 Hay Nhất - VnDoc.com

“Làng tôi ở vốn nghề chài lưới

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”

Hai câu đầu giới thiệu ngắn gọn “làng tôi”. Đây là hai câu thơ giản dị nhưng nếu thiếu lời giới thiệu này, quê hương sẽ trở nên trừu tượng, thiếu sức truyền cảm. Qua lời giới thiệu này, chúng ta thấy nhà thơ Tế Hanh rất tự hào về quê hương miền biển của mình. Niềm tự hào đó thể hiện sâu sắc tình yêu của ông dành cho quê hương.

Đến những câu thơ tiếp theo bức tranh thiên nhiên được vẽ ra qua tự giới thiệu về làng tôi của tác giả. Khung cảnh được tác giả vẽ ra là một khung cảnh của buổi sớm mai, với không gian thoáng đạt, trời trong, gió nhẹ, nắng mai hồng, với hình ảnh những con người dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá

“Khi trời trong gió nhẹ, sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”

Thế đấy, quê hương trong thơ Tế Hanh hiện lên đẹp và mát dịu như vậy. Thiên nhiên trong thơ ông còn là bức tranh lao động rất đỗi bình dị, gần gũi nhưng đầy sức sống:

“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.

“Nhờ ơn trời biển động cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”

Có thể nói, qua con mắt của một người con yêu quê nhưng phải sống xa quê, bức tranh thiên nhiên qua thơ Tế Hanh hiện lên thật đẹp, tràn đầy nhựa sống. Nó khác hẳn với cái vẻ buồn bã, thê lương đang hiện hữu trong thơ mới giai đoạn này.

Tiếp theo, chúng ta thấy, tình yêu quê hương của hai nhà thơ còn được thể hiện thông qua việc gửi gắm tâm sự thầm kín. Với Thế Lữ, ông gửi lòng yêu nước vào tâm sự thầm kín của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng, nhớ biết bao nhiêu thời vàng son oanh liệt. Ta nghe đó như chính là nỗi nhớ lịch sử vàng son oanh liệt của đất nước. Tâm trạng của con hổ là một ẩn dụ thể hiện tâm trạng của tác giả của người dân Việt Nam lúc đó. Đó là những con người đang ở trong vòng nô lệ, chịu sự áp bức, bóc lột của bọn thực dân Pháp và của xã hội phong kiến. Con hổ muốn được thoát khỏi song sắt chật hẹp của vườn bách thú cũng giống như tâm trạng của người dân muốn thoát khỏi cái vòng vây nô lệ đó:

“Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn”

Giấc mộng ngàn của chúa sơn lâm cũng là khao khát tự do thầm kín của con người được gửi gắm một cách tế nhị trong thơ. Còn đối với Quê hương của Tế Hanh, tình yêu quê hương đất nước là nỗi nhớ quê hương da diết khi xa quê. Mười bảy tuổi, xa quê, Tế Hanh luôn nhớ về quê hương làng vạn chài của mình. Với tấm lòng yêu quê hương sâu sắc, bức tranh làng chài thật sinh động và đậm nét qua cảm xúc của nhà thơ. Khi tả cảnh dân chài bơi thuyền đi đánh cá Tế Hanh đã dựng lên một không gian trong trẻo gió nhẹ rực rỡ nắng hồng… Con thuyền dũng mãnh vượt Trường Giang với sức sống mạnh mẽ mang một vẻ đẹp hùng tráng, bất ngờ hiếm thấy trong thơ mới, một bức tranh lao động đầy hứng khởi và đầy sức sống trong thơ mới. Phải cảm nhận được sức sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn thiết tha gắn bó mới viết được những câu thơ thật hay, thật đặc sắc:

“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.

Mảnh hồn làng ấy chính là nơi cho tâm hồn nghệ sĩ neo đậu với tấm lòng tha thiết nhớ thương về quê hương. Và đặc biệt hơn cả, nỗi nhớ quê hương, tình yêu quê hương được bộc lộ một cách trực tiếp ở khổ thơ cuối:

“Nay xa cách, lòng tôi luôn tưởng nhớ:

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”

Nhớ về quê hương miền biển của mình, nhà thơ nhớ: màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, nhớ con thuyền rẽ sóng và đặc biệt hơn cả là nhớ mùi vị mặn mòi của biển khơi – mùi vị đặc trưng mà chỉ có ở miền biển mới có được. Nỗi nhớ thiết tha trong xa cách là chất thơ đầy bình dị mà khỏe khoắn toát lên từ bức tranh thiên nhiên tươi sáng thơ mộng.

Quả thực, khi viết về tình yêu quê hương trong thơ mới, đặc biệt qua hai bài thơ Nhớ rừng và Quê hương, chúng ta phải nhìn nhận rằng cái “tôi” trong mỗi tác giả vừa được giải phóng tỏa hương thành vườn hoa đầy hương sắc của Thơ mới. Và mặc dù tình quê hương đất nước trong các bài thơ tuy chưa tích cực như thơ văn Cách mạng nhưng đáng trân trọng. Đó là một khoảng rộng trong trái tim yêu dào dạt của các nhà thơ mới trong đó có Thế Lữ và Tế Hanh.

…………………………..

Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu lớp 8: Em hãy chứng minh rằng “Tình yêu quê hương đất nước là một khoảng rộng trong trái tim của thơ mới” cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 8 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 8 và biết cách soạn bài lớp 8 các Tác giả – tác phẩm Ngữ văn 8 trong sách Văn tập 1 và tập 2. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.

Các bài liên quan đến tác phẩm:

  • Soạn bài lớp 8: Quê hương
  • Soạn bài lớp 8: Nhớ rừng
  • Phân tích bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ
  • Văn mẫu lớp 8: Phân tích bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh
Đánh giá bài viết

Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!

Dustin Đỗ

Tôi là Dustin Đỗ, tốt nghiệp trường ĐH Harvard. Hiện tôi là quản trị viên cho website: www.hql-neu.edu.vn. Hi vọng mọi kiến thức chuyên sâu của tôi có thể giúp các bạn trong quá trình học tập!!!

Related Articles

Back to top button