Chứng minh Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực (7
TOP 7 bài Chứng minh Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực siêu hay trong bài viết dưới đây của Download.vn sẽ giúp các bạn học sinh lớp 12 có thêm nhiều gợi ý tham khảo, để biết cách viết bài văn nghị luận chứng minh một nhận định văn học.
Tuyên ngôn Độc lập là áng văn mẫu mực của văn xuôi chính luận Việt Nam là một đánh giá cực kì đúng đắn và chính xác. Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh đã đưa ra những lý lẽ sắc sảo, luận điểm chặt chẽ với những dẫn chứng chính xác và đanh thép mà không ai có thể chối cãi được. Không chỉ có vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập ra đời còn đặt ra cách giải quyết vấn đề cấp bách lúc bấy giờ. Vậy dưới đây là 2 dàn ý và 7 bài văn mẫu Chứng minh Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực, mời các bạn học sinh cùng theo dõi và tải tại đây nhé.
Dàn ý tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực
Dàn ý số 1
I. Mở bài
– Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, dân tộc ta thừa cơ vùng lên giành lại chính quyền. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
– Bản “Tuyên ngôn độc lập” không chỉ là một văn kiện có giá trị lịch sử mà còn là một áng văn chính luận hào hùng, mẫu mực; một áng văn tràn đầy tâm huyết, khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của Người và của cả dân tộc. Nó có sức mạnh thuyết phục to lớn, làm rung động hàng triệu trái tim yêu nước Việt Nam.
II. Thân bài
1. Tuyên ngôn Độc lập trước hết là một văn kiện chính trị, lịch sử
– Là một văn kiện có ý nghĩa chính trị, lịch sử to lớn. Nó khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc, tư thế và chủ quyền của nhân dân đối với đất nước và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền ấy.
– “Tuyên ngôn độc lập” được một người soạn thảo, một người đọc tác phẩm ấy, nhưng đó là tiếng nói của cả dân tộc, quốc gia, của một chính phủ:… “Chúng tôi, Lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố…; Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng…”. Do đó, Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện của cả quốc gia.
2. Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chương mẫu mực của thời đại
– Là văn kiện chính trị, chứa đựng những nội dung chính trị, nhưng đây không phải là tác phẩm khô khan, trừu tượng.
– Có hệ thống lập luận chặt chẽ, với những lý lẽ sắc bén, những bằng chứng thuyết phục:
- Nêu ra cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn.
- Tiếp đến, Hồ Chí Minh đưa ra cơ sở thực tế của chủ quyền dân tộc Việt Nam: tội ác của thực dân pháp về kinh tế, chính trị, quân sự,…, về công khai hóa, bảo hộ của Pháp
– Khẳng định dân tộc Việt Nam có quyền trên đất nước mình.
– Từ những cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế hết sức đầy đủ, chặt chẽ, rõ ràng, Hồ Chí Minh đã đi đến tuyên bố Độc lập:
- Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết mọi đặc quyền đặc lợi của Pháp trên đất nước ta.
- Các nước Đồng minh không thể không công nhận chủ quyền độc lập của dân Việt Nam.
- Khẳng định quyền Dân tộc Việt Nam có quyền độc lập, tự do.
3. Tuyên ngôn Độc lập chứa đựng tình cảm nồng nhiệt, tâm huyết của người viết
– Lời văn “Tuyên ngôn độc lập” có lúc vang lên chắc chắn, vững chãi khi tác giả trích dẫn những bản tuyên ngôn của nước Mỹ, Pháp.
– Đau đớn, căm giận khi kể tội giặc Pháp.
– Sung sướng, tự hào với sức mạnh quật khởi nghĩa của nhân dân khi đứng lên đánh đuổi phát xít Nhật, giành lấy chính quyền.
– Quyết tâm sắt đá khi nói về sự bảo vệ quyền tự do và độc lập của dân tộc.
4. “Tuyên ngôn độc lập” được viết bởi bàn tay điêu luyện của một bậc thầy về ngôn ngữ”
– Câu văn uyển chuyển, sinh động, theo nhịp của giọng điệu bản Tuyên ngôn Độc lập; có những câu đơn, nhưng phần lớn là câu phức, nhiều mệnh đề.
– Sử dụng hàng loạt cấu trúc trùng điệp.
- Trùng điệp về từ, ngữ: “Dân ta… Dân ta… Chúng tôi… Chúng tôi… Một dân tộc… Một dân tộc”.
- Trùng điệp về câu: “Chúng thi hành… dã man; Chúng lập ba chế độ… đoàn kết; Chúng lập ra nhà tù…; Chúng ràng buộc…”
- Trùng điệp về nội dung theo chiều hướng tăng tiến ở nhiều cấp độ.
– Câu văn giàu hình ảnh: thẳng tay chém giết; tắm các cuộc khởi nghĩa … bể máu; bóc lột đến xương tuỷ; nước ta xơ xác, tiêu điều; ngóc đầu lên; quỳ gối đầu hàng…
III. Kết bài
Nêu cảm nhận của em và khẳng định lại vấn đề:
– “Tuyên ngôn độc lập” là một kiệt tác bằng cả tài hoa, tâm huyết của Hồ Chí Minh, Người đã thể hiện khí phách của cả dân tộc trước trường quốc tế. Tác phẩm được đánh giá là văn bản chính luận mẫu mực bởi kết cấu chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn, thấu tình đạt lý. Câu văn gọn gàng, trong sáng một cách kỳ lạ, có sức lay động hàng triệu trái tim người Việt Nam và cả thế giới. “Tuyên ngôn độc lập” rất xứng đáng là áng văn muôn đời.
– “Tuyên ngôn độc lập” (1945) của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đất nước nguy vong: chính quyền cách mạng còn non trẻ hải đương đầu với bao khó khăn chồng chất.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Hồ Chí Minh, văn bản “Tuyên ngôn độc lập”, nêu vấn đề tính chính luận mẫu mực trong bài “Tuyên ngôn độc lập”.
2. Thân bài
– Bản tuyên ngôn có kết cấu 3 phần mạch lạc, liên kết chặt chẽ:
- Phần 1 là cơ sở pháp lý vững chắc
- Phần 2 đưa ra cơ sở thực tiễn rõ ràng
- Phần 3 từ hai cơ sở pháp lý và thực tiễn đưa ra lời tuyên bố
– Cách lập luận chặt chẽ:
- Lí lẽ sắc sảo, luận điểm rõ ràng
- Dẫn chứng xác đáng lấy từ sự thật lịch sử
– Ngôn từ mang sắc thái chính trị kết hợp với từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm
- Thể hiện lập trường tư tưởng
- Thể hiện tầm nhìn chiến lược
- Kết hợp giữa lí trí và tình cảm làm tăng sức thuyết phục.
3. Kết bài: Khái quát giá trị văn bản.
Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực – Mẫu 1
Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc ta ngàn đời tôn kính, biết ơn là một trong những nhà văn bậc thầy về thể chính luận. Trong những áng văn chương đồ sộ mà người để lại, “Tuyên ngôn độc lập” hiện lên như một áng văn chính luận mẫu mực nhất, là kết tinh của giá trị lịch sử, giá trị thời đại và nó trường tồn bất diệt.
Toàn văn bản Tuyên ngôn độc lập không quá dài mà rất súc tích, cô đọng, hàm ý sâu xa. Bản tuyên ngôn độc lập được ra đời vào ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, người soạn thảo bản Tuyên ngôn và sau đó, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập.
Hồ Chí Minh dùng những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không thể chối cãi được để viết nên áng văn chính luận mẫu mực. Không chỉ vậy, văn kiện này còn là tấm lòng yêu nước nồng nàn, niềm tự hào dân tộc mãnh liệt, sự khao khát độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ tự do, độc lập của nhân dân Việt Nam ở Người.
Mở đầu bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo đưa cơ sở lý lẽ về nhân quyền và dân quyền. Trước hết Người khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đây là quyền lợi đáng được hưởng từ khi mỗi người sinh là, là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Hồ Chí Minh đã khéo léo trích dẫn thuyết phục hai bản tuyên ngôn của thực dân Pháp và của đế quốc Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ); “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp). Tại sao Người lại chọn Pháp và Mỹ mà không phải các nước khác? Ta thấy được rằng, hai nước này mang tư tưởng tiến bộ bấy giờ. Nếu thế giới công nhận các quyền cơ bản của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ thì họ cũng sẽ công nhận các quyền ấy với đất nước Việt Nam. Một cú gậy ông đập lưng ông hoàn hảo. Bản tuyên ngôn của ta đặt ngang hàng với bản tuyên ngôn của hai nước lớn càng tạo sự thuyết phục mạnh mẽ trong cộng đồng thế giới. Người đã chặn đứng âm mưu xâm lược của chúng bằng cách: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Và Người khẳng định chắc nịch: “Đó là lí lẽ không ai có thể chối cãi được”. Vậy có nghĩa là nền độc lập của dân tộc ta là có căn cứ chính đáng, sâu sắc. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ không thể đi trái với tổ tiên của họ.
Để làm nổi bật hơn cho lí lẽ thêm sắc bén và thuyết phục, Người đã vạch trần bộ mặt thối tha của thực dân Pháp với những tội ác khó có thể dung tha cả về ba mặt: chính trị, kinh tế, xã hội.
Đầu tiên, về mặt chính trị, “Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành pháp luật dã man, chúng lập ba chế độ khác nhau, chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học, chúng chém giết người yêu nước, chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân, chúng còn dùng thuốc phiện, rượu cồn làm cho giống nòi ta suy nhược…”. Một loạt tội ác của Pháp được liệt kê một cách chân thực dưới ngòi bút sắc bén của Hồ Chí Minh với những lập luận xác đáng, thuyết phục. Hành động của chúng vô cùng độc ác, vô nhân đạo, cay nghiệt đáng lên án.
Tiếp đến, về mặt kinh tế, chúng bóc lột sức lao động của người dân, chúng cướp ruộng đất, đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý nhằm bào mòn cả thể chất, sức cùng lực kiệt của dân Việt. Người đã phơi bày bản chất dã man, tàn bạo của thực dân Pháp ra ánh sáng, mang bộ mặt giả đội lốt người “khai hóa, bảo hộ” đến nhân dân thế giới, khơi dậy lòng căm thù giặc, tinh thần chiến đấu xả thân cứu nước của nhân dân ta.
Giọng văn ở phần này thay đổi linh hoạt được Người vận dụng một cách triệt để. Nếu như ở phần liệt kê tội ác, việc làm xấu xa của thực dân Pháp, Người dùng giọng đanh thép, mỉa mai, căm thù quân địch thì khi tới miêu tả hậu quả mà dân ta phải chịu, phải gồng mình lên gánh chống đỡ thì giọng văn lại chuyển sang nhẹ nhàng, đau xót, thương cảm. Đọc đoán kết tội ấy, ta lại nhớ tới Nguyễn Trãi, ông cũng từng viết:
“Độc ác thay trúc Lam Sơn không ghi hết tộiDơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa hết mùi”
Hồ Chí Minh không luận tội mà kết tội trực tiếp những việc làm kinh khủng mà thực dân Pháp đã tạo ra. Dường như, Người như một vị quan tòa anh minh đang lột tả tộc ác của kẻ cầm đầu phơi bày bộ mặt ra cho thế giới chiêm ngưỡng, ném gạch.
Người đã lột lớp mặt nạ đểu cáng của thực dân Pháp xuống. Điệp từ “sự thật là…” lặp lại để thể hiện chiến thắng của quân ta. Ta giành lại nước từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Để rồi kết: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” ngắn gọn và súc tích, nghe như một lời reo vui. Tự do mà ta giành được thật đáng trân trọng. Bản tuyên ngôn gần như chỉ xoáy sâu vào hai trọng điểm lớn: một là, phủ nhận hoàn toàn quyền liên quan đến thực dân pháp, hai là khẳng định quyền độc lập và ý thức bảo vệ mãnh liệt quyền độc lập đã giành được ấy: “tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
Từ những lí lẽ trên, Người như muốn tuyên bố cho cả thế giới biết rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.” Để đánh đổi được nền độc lập ấy, biết bao nhiêu con người đã phải hy sinh, họ nằm xuống nơi đất khách quê người, họ bỏ tuổi trẻ còn dở dang, họ bỏ cuộc sống êm đềm bên người thân, gia đình, bạn bè, theo tiếng gọi của tổ quốc để chiến đấu, bảo vệ, giữ gìn những cái mà chúng ta đã giành được. Người đã khẳng định: “Sự thật đã thành một nước tự do, độc lập” thật tuyệt vời biết bao. Trong phần tuyên này, Hồ Chí Minh cũng hết sức thuyết phục khi lồng ghép lập luận, lí lẽ sắc bén, ngòi bút chính luận thâm thúy với những từ ngữ hào hùng, khí thế của thể văn chính luận.
Có thể thấy rằng, Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bằng lí lẽ, lập luận sắc bén, giọng văn thay đổi luân chuyển nhịp nhàng, Người vừa vạch ra hàng loạt tội ác tày đình của thực dân Pháp, vừa bày tỏ lòng biết ơn sự hy sinh, tình yêu quê hương sâu sắc của dân tộc Việt Nam đã đúc kết thành một làn sóng mạnh mẽ. Tuyên ngôn độc lập như mở ra một trang sử mới cho lịch sử nước nhà, mở đầu cho kỷ nguyên độc lập tự do, là bàn đạp cho Việt Nam hòa mình vào với thế giới.
Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực – Mẫu 2
Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ thiên tài của đất nước Việt Nam, những tác phẩm của ông đều mang giá trị sâu sắc của một bài văn chính luận mẫu mực, bởi Bác là người viết ra với tư cách là một người luôn ý thức được những bài văn của mình, giá trị của những bài văn bác viết mang đậm giá trị to lớn của những lời tố cáo đanh thép đối với kẻ thù và bài Tuyên Ngôn độc lập là một bài mang đậm chuẩn mực giá trị trong phong cách viết của bác.
“Tuyên ngôn độc lập” là một bài văn chính luận mẫu mực khi bác luôn ý thức được trong bài là viết ra để cho dân tộc, đây là một bằng chứng thép để tố cáo tội ác của kẻ thù, những năm tháng kháng chiến gian khổ, giờ đây nhân dân Việt Nam đã được những giây phút tự do để có thể mang lại những khoảng không gian hòa bình cho dân tộc Việt Nam. Đây là một vũ khí sắc bén để chúng ta đối phó với kẻ thù. Trong bầu không khí trang trọng của tiết trời mùa thu ngày mùng 2 tháng 9 bác đã độc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Bài văn của Hồ Chí Minh mang đậm tính chất của một bài văn chính luận bởi vì những lý lẽ mà người viết ra rất xác thực, văn phong ngắn gọn và mang đậm giá trị về sự sống và các tính chất cho mỗi con người, mỗi chúng ta đều có thể thấy điều đó qua cách dẫn dắt và nó ăn sâu vào trong tâm trí của mỗi người Việt Nam.
Trong bài bác xác định rõ đối tượng viết của mình là đồng bào dân tộc, mở đầu bài văn này, bác đã dùng những từ mang đậm tính chất rằng đối tượng ở đây chắc chắn phải là nhân dân: “Hỡi đồng bào cả nước”, mục đích của bản tuyên ngôn này là tuyên bố lý do, nhưng khi nhìn sâu vào trong bài này chúng ta có thể thấy đối tượng ở đây không chỉ là nhân dân Việt Nam mà còn dành cho nhiều người trên khắp thế giới, khi trong bản tuyên ngôn của Việt Nam cũng chứa đựng những bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp và Mỹ, khi đối với hai cường quốc đầu xỏ này thì việc trích dẫn vào nó mang một ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ.
Tuyên ngôn dân quyền là nhắc đến việc bình đẳng, bác ái, mỗi người đều có thể thấy rằng việc trích dẫn này có ý nghĩa rằng dân tộc Việt Nam là một dân tộc có sự tự do cao và luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Trong bản tuyên ngôn độc lập sự tự do và đề cao tư tưởng nhân dân luôn luôn được chú trọng, những điều đó mang đậm giá trị cốt lõi trong bản tuyên ngôn. Nhân dân Việt Nam đã trải qua một thời kỳ gian nan khi phải đối đầu với những kẻ thù sừng sỏ và cường quốc, nhưng điều đó không ảnh hưởng lớn đến mỗi người, khi bản tuyên ngôn đã thấm đẫm mà mang giá trị sống mạnh mẽ cho mỗi người.
Bác đã dẫn chứng ra rất nhiều điều đáng quý và nó nhằm nêu lại những năm tháng đấu tranh gian nan để có thể giành được độc lập tự do cho dân tộc, mỗi chúng ta đều có quyền hành như nhau và ai ai cũng đều có quyền bình đẳng đúng như trong tuyên ngôn đã khẳng định. Ngoài mang ý nghĩa khẳng định nền độc lập của dân tộc thì bản tuyên ngôn cũng mang đậm giá trị tố cáo tội ác của kẻ thù. Với những lý lẽ rất thuyết phục nó đã mang đậm giá trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam, những lời lẽ mang tính đanh thép đó đã khắc sâu trong tâm trí của mỗi con người.
Bản “Tuyên ngôn độc lập” của dân tộc Việt Nam đã mang đậm giá trị nhân văn và tố cáo tội ác của kẻ thù những điều đó để lại cho mỗi người những niềm tin vững chắc về một nền độc lập khi mỗi chúng ta đều có thể làm nên những điều có giá trị và ý nghĩa nhất. Bác Hồ đã khẳng định điều đó qua bản tuyên ngôn độc lập, những giá trị về niềm tin yêu thương và mang đậm giá trị khẳng định một nền độc lập cho dân tộc Việt Nam. Bản “Tuyên ngôn độc lậ”p đã khẳng định được sự đanh thép trong mỗi người, những lời lẽ thuyết phục và mang giá trị đã khẳng định được sự sống còn và mang đậm niềm yêu thương cho mỗi người Việt Nam.
“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh có thể được coi như một bài văn chính luận sâu sắc bởi lý lẽ và văn phong xuất hiện trong tác phẩm này, đậm giá trị và mang nhiều những âm hưởng cao của cuộc sống con người.
Đó là một bài văn mang đậm giá trị tố cáo và lý lẽ sâu sắc trong cuộc đời của mỗi người, giá trị của nó không chỉ để lại những nỗi nhớ mong và sự sâu sắc trong tâm hồn của mỗi con người, hạnh phúc nhân dân Việt Nam là có một bài học có giá trị và cốt lõi như của dân tộc Việt Nam. Đây cũng được coi như là một bài học có nhiều giá trị nhất cho mỗi con người, giá trị của nó để lại cho dân tộc mang sự tố cáo mạnh mẽ và sâu sắc nhất trong mỗi con người.
Mỗi chúng ta đều có thể thấy rằng giá trị của bản “Tuyên ngôn độc lập” để lại cho dân tộc có ý nghĩa to lớn, mang đậm giá trị to lớn của dân tộc Việt Nam, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam đều có thể thấy đó là niềm yêu thương và sự tín nhiệm trong toàn thể dân tộc. Với những ngôn ngữ đậm chính luận, và sự kết hợp giữa chính trị và tư tưởng cốt lõi của dân tộc, nó đã phản ánh mạnh mẽ và sâu sắc nhất truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Bài văn này được viết lên không chỉ để cung cấp cho con người những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, mà nó còn mang đậm màu sắc về sự tố cáo, và sự cải tạo nhiều yếu tố mạnh mẽ của con người, biết bao nhiêu những hoàn cảnh bất hạnh và những giá trị đó đã cải tạo được sự sống và mang đậm chất nhân văn sâu sắc nhất cho mỗi người.
Đối tượng của bài văn này được chủ tịch Hồ Chí Minh làm nên một cách rõ ràng và chi tiết nhất, những giá trị đó luôn luôn mang những nền tảng tinh thần, và sự sống còn của đất nước Việt Nam. Với việc luôn có trách nhiệm với tinh thần của người cầm bút bác đã khẳng định mạnh mẽ được giá trị về niềm tin, và sự uy nghiêm trong cuộc sống của mỗi con người. Và những điều mà bác Hồ khẳng định trong tác phẩm cũng luôn luôn khẳng định được một cách chi tiết và có ý nghĩa nhất: “Tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền mà không ai có thể xâm phạm được…”
Những điều đó đã mang đậm tư tưởng cốt lõi trong tác phẩm của Hồ Chí Minh, người luôn luôn ý thức được trách nhiệm của mình đối với dân tộc và điều đó cũng ảnh hưởng đến cuộc sống và tinh thần của mỗi con người, nên yêu thương và trân trọng những tư tưởng sống và tinh thần sống mạnh mẽ của dân tộc điều đó làm nên những trang sử sách vẻ vang, và mang đậm giá trị to lớn của cuộc sống này. Mỗi chúng ta đều có thể thấy được điều đó qua cách viết khoa học và đậm giá trị của Người, biết yêu thương và luôn là người có trách nhiệm với cây bút của mình.
Với lối viết khoa học và đậm chất chính luận, bài “Tuyên ngôn độc lập” đã mang những tư tưởng to lớn cho dân tộc và để lại cho mỗi người những cảm xúc sâu sắc và đáng quý nhất.
Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực – Mẫu 3
Bản “Tuyên ngôn độc lập” là áng văn mẫu mực của văn xuôi chính luận Việt Nam là một đánh giá đúng đắn và chính xác. Cùng với “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi và “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được coi là ba bản Tuyên ngôn của nước Việt Nam. Nếu “Bình Ngô đại cáo” được coi là một áng thiên cổ hùng văn thi “Tuyên ngôn độc lập” được coi là một áng văn xuôi chính luận mẫu mực.
“Tuyên ngôn độc lập” đã đưa ra những lý lẽ sắc sảo, luận điểm chặt chẽ với những dẫn chứng chính xác và đanh thép mà không ai có thể chối cãi được. Không chỉ có vậy, bản “Tuyên ngôn độc lập” ra đời còn đặt ra cách giải quyết vấn đề cấp bách lúc bấy giờ.
Trước hết, “Tuyên ngôn độc lập” xứng đáng là một áng văn mẫu mực của văn xuôi chính luận Việt Nam vì tác phẩm này Người đã đưa ra những lý lẽ sắc sảo và đanh thép. Qua bản “Tuyên ngôn độc lập”, Bác muốn khẳng định quyền làm chủ của dân tộc Việt Nam. Bác đã đưa ra hai bản Tuyên ngôn của hai kẻ thù là Pháp và Mỹ. Đó là hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại. Bác đã dùng chính luận điệu của kẻ thù để bác bỏ những luận điệu, những chiêu bài của kẻ thù. Dùng chính bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ để nhắc nhở và cảnh tĩnh: nếu có tinh xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại bản Tuyên ngôn của nước họ. Chính những lí lẽ sắc sảo của tác giả khi trích dẫn hai bản Tuyên ngôn để xác lập quyền bình đẳng của con người, và đây chính là nền tảng pháp lý vững chắc để Bác suy rộng ra quyền bình đẳng của các dân tộc trên thế giới, từ đó đi đến khẳng định quyền độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam trước công luận thế giới. Luận điểm này có ý nghĩa to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc. Người đã trích dẫn đoạn tiêu biểu trong bản Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp. Đây là bản Tuyên ngôn xác định quyền sống và quyền tự do của con người để đi đến khẳng định ai cũng có quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Nó không chỉ khẳng định chủ quyền mà còn cảnh báo đối với kẻ thù. Lịch sử của dân tộc ta là lịch sử dựng nước và giữ nước, cả dân tộc đồng lòng đứng lên chống ngoại xâm. Chúng ta không bao giờ chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào. Chính vì vậy, chúng ta đã đánh thắng và đuổi được thực dân, lật đổ chế độ phát xít cho nên trong hiện tại và tương lai, kẻ nào lăm le xâm lược nước ta sẽ phải chuốc lấy thất bại.
Tính chất mẫu mực của áng văn xuôi chính luận còn được biểu hiện ở hệ thống lập luận chặt chẽ và khoa học. Phần kết của phần đặt vấn đề, Bác đã viết: Đó là những lí lẽ phải không ai chối cãi được và để bắt sang đoạn mở của phần giải quyết vấn đề, Người đưa ra những luận điệu đanh thép kết tội thực dân Pháp. Chúng cai trị nước ta không phải với luận điệu khai hóa, văn minh mà là đầu độc dân ta bằng rượu cồn và thuốc phiện, chúng thực hiện chính sách ngu dân dễ cai trị. Bằng một loạt luận điểm và dẫn chứng rõ ràng, Bác đã vạch trần bản chất phi nghĩa của chúng. Chúng không hề mở mang, khai hóa mà chúng đã nhấn chìm chúng ta vào bóng tối của sự ngu dốt, nghèo nàn, bạc nhược.
Pháp kể công bảo hộ Đông Dương vậy mà bản Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định trong năm năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Lần thứ nhất là mùa thu 1940, còn lần thứ hai là 9 tháng 3 năm 1945. Chúng còn giương cao lá cờ bình đẳng bác ái nhưng Bác đã gạt bỏ bằng một loạt những dẫn chứng từ thực tế lịch sử. Chúng hình thành những đạo luật dã man, chúng tắm dân ta trong bể máu, đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, đàn áp các cuộc khởi nghĩa. Từ những lí lẽ sắc bén, Bác đã vạch trần bộ mặt của chúng.
Và Pháp còn tuyên bố có quyền quay trở lại Đông Dương mà không biết chúng ta đã giành độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Câu văn viết theo lối trùng điệp vừa nhấn mạnh ý, vừa tạo ra một lập luận hùng hồn. Và đây chính là nền tảng vững chắc để Bác đi đến khẳng định hùng hồn tuyên bố xóa bỏ mọi quan hệ, mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Pháp không còn là người bảo hộ nước Việt Nam. Tóm lại, với cách lập luận chặt chẽ, Hồ Chí Minh đã bác bỏ đanh thép và thuyết phục luận điệu xảo trá của kẻ thù cướp nước. Khẳng định tư thế vững chãi làm chủ của nước Việt Nam.
Nếu thực dân Pháp bộc lộ bản chất đê hèn, phản động khi giết những người Việt Nam yêu nước thì chúng ta lại luôn dùng tấm lòng khoan hồng khi chúng thất thế. Việt Minh giúp cho những người Pháp chạy qua biên thùy lại cứu cho người dân Pháp khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ. Đây là một nét đẹp của người dân Việt Nam. Chúng ta luôn dùng tấm lòng nhân ái, vị tha đối xử với kẻ thù.
Nếu Pháp bộc lộ dã tâm đen tối muốn đô hộ, xâm lược ta thì ta luôn một lòng yêu chuộng hòa bình, yêu tự do. Chúng ta chỉ muốn lật đổ chế độ phát xít, xây dựng hòa bình.
Tóm lại, hệ thống lập luận mà Người đưa ra ở bản “Tuyên ngôn độc lập” vừa thể hiện khả năng tư duy sắc sảo, nhạy bén đầy trí tuệ vừa mỉa mai, khinh thường những kẻ cướp nước, xâm lăng. Và hết sức thuyết phục khi tuyên bố chủ quyền của dân tộc ta.
Không chỉ mẫu mực trong lý lẽ, trong cách lập luận “Tuyên ngôn độc lập” còn là áng văn xuôi chính luận mẫu mực về cách chọn trình bày dẫn chứng. Bản Tuyên ngôn đã tuân thủ chặt chẽ những yêu cầu của văn chính luận khi đưa ra những dẫn chứng rất đa dạng, có cơ sở từ kho tàng văn học nhân loại. Đó là những nguyên lý có giá trị như một chân lý, nó gắn liền với các sự kiện lịch sử tiêu biểu. Những dẫn chứng được trình bày rất khoa học khiến cho người nghe, người đọc dễ theo dõi. Ngôn ngữ dễ hiểu, chặt chẽ và hàm súc, tác động tích cực đến người nghe.
Đây quả thực xứng đáng là áng văn xuôi chính luận mẫu mực những lí lẽ sắc sảo, đanh thép, lập luận chặt chẽ, khoa học với dẫn chứng được chọn lọc xác đáng. Đây cũng chính là đặc sắc nghệ thuật đã giúp Bác thực hiện thành công nhiệm vụ chính trị trước mắt, tuyên bố chủ quyền của dân tộc Việt Nam. Nó là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập trước mắt và sau này.
Bản “Tuyên ngôn độc lập” ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử việt Nam. Nó đã cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc ta lúc bấy giờ và củng cố thêm niềm tin vững chắc vào thắng lợi, vào tương lai của nước Việt Nam. Nó khiến cho những kẻ thù xâm lăng phải chùn bước.
Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực – Mẫu 4
“Tuyên ngôn độc lập” (1945) của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đất nước nguy vong: chính quyền cách mạng còn non trẻ hải đương đầu với bao khó khăn chồng chất.
Bản tuyên ngôn phải đồng thời làm hai nhiệm vụ: vừa khẳng định nền độc lập của dân tộc, vừa phủ định lí lẽ bịp bợm của bọn thực dân cướp nước trước dư luận thế giới. Hiểu như thế mới thấy được vì sao Hồ Chí Minh lại dùng những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không thể chối cãi được để viết nên áng văn chính luận mẫu mực. Không chỉ vậy, văn kiện lập quốc này còn là tấm lòng yêu nước nồng nàn, niềm tự hào dân tộc mãnh liệt, sự khao khát độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ tự do, độc lập của nhân dân Việt Nam ở Hồ Chí Minh.
Khi Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn thì ở phía Nam, thực dân Pháp núp sau lưng quân đội Anh đang tiến quân vào Đông Dương; còn ở phía Bắc hai mươi vạn quân Tưởng tay sai của đế quốc Mĩ đã chực sẵn ở biên giới. Vậy đối tượng của bản tuyên ngôn không chỉ là đồng bào cả nước, là nhân dân thế giới nói chung; mà trước hết là bọn thực dân, đế quốc đang âm mưu tái chiếm nước ta.
Bản tuyên ngôn đã giải quyết vấn đề bức thiết ấy với những lập luận chặt chẽ và đanh thép ngay từ phần mở đầu. Hồ Chí Minh mở đầu bản tuyên ngôn bằng cách trích dẫn lời hai bản tuyên ngôn bất hủ của Mỹ và Pháp: “Tất cả mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ); “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp). Bởi lẽ bấy giờ, tư tưởng tiến bộ của những nước lớn, nước tư bản đang có ảnh hưởng mạnh mẽ trên thế giới. Việc trích dẫn tuyên ngôn của hai nước lớn Pháp và Mỹ sẽ dễ tạo được thông suốt, sự công nhận tức thời, được nhiều nước thừa nhận. Nếu thế giới đã công nhận quyền độc lập, tự do, dân chủ , bình đẳng của Mĩ, của Pháp thì sẽ phải công nhận quyền độc lập tự do của Việt Nam. Bản tuyên ngôn của Việt Nam đã có một cơ sở pháp lí chính nghĩa rất vững vàng.
Cách trích dẫn ấy còn là chiến thuật sắc bén của Hồ Chí Minh, khéo léo và kiên quyết. Khéo léo, vì Hồ Chí Minh tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp , người Mỹ. Kiên quyết vì Hồ Chí Minh đã nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ nhân đạo và chính nghĩa của những cuộc cách mạng vĩ đại. Ngoài ra mở đầu như thế còn có ý nghĩa gợi lên niềm tự hào dân tộc to lớn. Bản tuyên ngôn nước ta đặt ngang hàng với hai bản tuyên ngôn của hai nước lớn: Pháp và Mĩ, tức là đặt ngang hàng ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập, ba quốc gia. Thật đáng tự hào , vì cuộc cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết nhiệm vụ của cả cách mạng Mỹ (1776) và cách mạng Pháp(1791). Bản tuyên ngôn đã nêu rõ: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”, đó là nhiệm vụ của cách mạng Mỹ: đấu tranh giải phóng dân tộc; và “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”, đó là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền, dân quyền của Pháp.
Hồ Chí Minh chặn đứng ngay âm mưu xâm lược của kẻ thù một cách thấu tình đạt lý trong ý kiến suy rộng ra: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”. Cách suy rộng ra ấy vừa dễ hiểu lại vừa có nghĩa lớn lao đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Ta có thể xem câu suy rộng ra ấy của Hồ Chí Minh như phát súng lệnh mở đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa, sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân vào nửa sau thế kỉ XX. Hồ Chí Minh đã kết lại phần mở đầu với một câu nói chắc nịch, thể hiện rõ quan điểm của Người: “Đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được”. Vậy có nghĩa là, quyền độc lập của dân tộc Việt Nam đã có một căn cứ sâu xa, một hậu thuẫn vô cùng vững chắc. Cũng có nghĩa là thực dân Pháp không được đi ngược lại với “những lẽ phải” của tổ tiên họ.
Bọn thực dân để chuẩn bị cho cuộc tái chiếm nước ta, chúng đã tung ra trước dư luận thế giới những lí lẽ bịp bợm: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp, Pháp có công khai hóa đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên, khi phát xít Nhật đã bị Đồng Minh đánh bại. Thực dân pháp kể công khai hóa Đông Dương thì bản tuyên ngôn đã bóc trần bản chất cướp nước của chúng bằng một hệ thống dẫn chứng xác đáng, thuyết phục và những lí lẽ đanh thép, hùng hồn. Từ chuyển ý “thế mà” như một điểm tựa, một đòn bẩy bất ngờ hất tung bộ mặt xảo trá của bọn thực dân Pháp, phơi bày chân tướng giấu sau chiêu bài văn minh, khai hóa, bảo hộ thực chất là xâm lược, là cướp nước. Bằng một câu văn chắc gọn: “Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”, Hồ Chí Minh đã kết tội bọn thực dân nói điều nhân nghĩa làm điều phi nghĩa. Để đập tan luận điệu xảo trá này của thực dân, Hồ Chí Minh đã đưa ra những dẫn chứng chọn lọc cụ thể, xác đáng, toàn diện vạch ra tội ác dã man, tàn bạo của thực dân pháp chủ yếu trong hai lĩnh vực chính trị và kinh tế.
Mười bốn câu văn dẫn ra hàng loạt tội ác điển hình của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ đô hộ nước ta, mà chúng cho là văn minh, khai hóa. Những hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Tự do dân chủ là quyền cơ bản của con người nhưng từ khi Thực dân Pháp bước chân vào Việt Nam đã “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Chúng đã biến Việt Nam thành thuộc địa, người dân thành nô lệ. Và còn hàng loạt những chính sách bóc lột vô cùng tàn nhẫn khác được Hồ Chí Minh nêu ra: “Chúng thi hành những luật pháp dã man/Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học/Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”. Cuối cùng chúng gây ra nạn đói khiến “từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”. Với những dẫn chứng xác thực, không thể chối cãi được và cách lập luận chặt chẽ, đanh thép, Hồ Chí Minh đã kết tội cướp nước của bọn thực dân Pháp một cách hùng hồn. Hồ Chí Minh lại đập tan mọi luận điệu xảo trá, bịp bợm mà bọn chúng đã tung ra trước dư luận thế giới.
Nếu thực dân Pháp kể công “bảo hộ” thì bản tuyên ngôn đã lên án: “Thế là chẳng những chúng không bảo hộ được ta, trái lại, trong năm năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Những dẫn chứng mà Hồ Chí Minh đưa ra đều là những sự kiện, bằng chứng lịch sử. Mùa thu năm 1940, Nhật xâm lược Đông Dương thì pháp đã “quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật”. Cách dùng từ ngữ đầy mỉa mai của Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất bạc nhược, đê hèn của bọn thực dân Pháp. Chính sự thỏa hiệp đó của chúng đã khiến nhân dân ta phải chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm 1945 khi Nhật đảo chính, “bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng” để nước ta rơi vào tay Nhật. Đoạn văn thể hiện sự khôn khéo và tài hùng biện chặt chẽ, vững vàng của Hồ Chí Minh trước một bài toán khó liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc Việt Nam khi đó. Thực dân Pháp là kẻ thù của ta. Nhưng ta và Pháp lại cùng thuộc Đồng minh, cùng một hàng ngũ. Vậy vừa là kẻ thù, vừa là bạn. Hồ Chí Minh đã khéo léo loại bỏ bọn thực dân Pháp ở Đông Dương ra khỏi hàng ngũ Đồng Minh. Thứ nhất, chúng đã bán Việt Nam cho phát xít Nhật để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh. Thứ hai, chúng cự tuyệt liên minh để chống phát xít. Thứ ba, chúng khủng bố những người Đồng Minh chống phát xít. Với những bằng chứng lịch sử rõ ràng, sáng tỏ Hồ Chí Minh đã kết tội bọn thực dân Pháp ở Đông Dương phản bội Đồng Minh, không thực hiện nghĩa vụ chống phát xít.
Hồ Chí Minh còn khẳng định thực dân Pháp không có quyền quay trở lại Việt Nam bởi Việt Nam đã không còn là thuộc địa của Pháp nữa: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa”. Vì Pháp đã bán Việt Nam cho Nhật, Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp. Và “Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Điệp từ “sự thật là” lặp lại như một điệp khúc, làm tăng âm hưởng hùng hồn, đanh thép, chắc chắn cho bản tuyên ngôn. Vì sức mạnh của chính nghĩa bao giờ cũng là sức mạnh của sự thật. Đó là một thành công trong nghệ thuật lập luận chặt chẽ, thuyết phục người đọc của Hồ Chí Minh. Thực dân Pháp không có công khai hóa, bảo hộ Việt Nam, Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp, Pháp không thể vin cớ gì để quay trở lại Việt Nam. Đây là một lập luận hết sức chặt chẽ, kín kẽ; một lý lẽ đanh thép, đầy sức thuyết phục của Hồ Chí Minh. Qua đó, ta càng công nhận Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận sắc sảo, hùng hồn.
Tuy nhiên để làm nên một áng văn chính luận mẫu mực thì chỉ có lập luận và dẫn chứng thôi là chưa đủ. Trong bản tuyên ngôn, để vạch trần tội ác dã man, tàn bạo của bọn thực dân , Hồ Chí Minh còn sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh kết hợp với giọng điệu câu văn thay đổi để thể hiện những cung bậc cảm xúc khác nhau. Điều đó góp phần tạo sức thuyết phục cho người đọc thông qua những cảm xúc giản dị nhất, chân thật nhất của Người. Điều ấy làm cho lời kết tội thêm xúc động thấm thía, nghẹn ngào: “Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, “Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy”… Dường như cảm xúc tới đây đã nghẹn lại trong câu văn ngắn, một đoạn văn ngắn. Hồ Chí Minh còn sử dụng những từ đồng nghĩa đi sóng đôi với nhau để khắc sâu hình ảnh đất nước ta sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp dày xéo: “Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”. Việc sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh cảm xúc cùng cấu trúc ngữ pháp điệp liên tiếp trong mười bốn câu văn đã góp phần cho lời kể tội ác thực dân của Hồ Chí Minh càng hùng hồn, đanh thép hơn nữa. Những chính sách ấy thực chất đã vi phạm quyền con người. “Tuyên ngôn độc lập” còn là áng văn chính luận xúc động lòng người được bộc lộ từ tấm lòng yêu nước nồng nàn ở Hồ Chí Minh. Tấm lòng ấy đã truyền vào từng lời văn khi tha thiết tự hào, khi hùng hồn đanh thép gây xúc động mạnh mẽ đối với người đọc. Trong đoạn văn kể tội bọn thực dân Pháp giọng văn của Hồ Chí Minh chia ra làm hai gam giọng rõ ràng trong từng vế câu văn. Vế câu kể tội ác của giặc thì giọng văn sôi trào, đanh thép, phẫn nộ căm thù, vế câu nêu hậu quả của người dân Việt Nam phải gánh chịu thì nghẹn ngào, trầm lắng, xót xa, u uất. Những đoạn văn dài ngắn xô đẩy xen kẽ nhau như nhịp cảm xúc lên xuống thổn thức theo đau thương và dồn nén căm hờn, khi lại sôi trò đanh thép. Đoạn văn gợi ta nhớ đến bản chép tội giặc Minh của Nguyễn Trãi xưa: “Độc ác thay trúc Lam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa hết mùi”. Ta cũng có thể nói như thế với thực dân Pháp. Vì đây không phải lần đầu tiên Hồ Chí Minh kết tội thực dân Pháp. Có lẽ đây chỉ là những dòng văn cuối cùng của một “Bản án chế độ thực dân Pháp” mà Hồ Chí Minh đã lập hồ sơ từ những năm hai mươi. Hồ Chí Minh không luận tội mà kết tội trực tiếp, tuyên án thực dân Pháp trước dư luận thế giới. Có cảm giác Hồ Chí Minh như một vị quan tòa đang cất cao lời buộc tội chủ nghĩa thực dân, còn bọn thực dân Pháp hiện ra như bị cáo bị vạch tội trước công luận thế giới.
Từ những lí lẽ trên, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Quyền tự do, độc lập ấy phù hợp với “lẽ phải không ai chối cãi được”, là kết quả đấu tranh xương máu, bền bỉ của biết bao con người suốt gần một trăm năm. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “sự thật đã thành nước tự do, độc lập”. Nghĩa là, nền độc lập không phải cái ta cần phải có, mà nó đã là sự thật, ta đã có, đã giành được. Từ nay nước Việt Nam độc lập tự do đã được cả thế giới công nhận. Song do chính quyền cách mạng còn rất non trẻ đã phải đương đầu với bao khó khăn chồng chất, vì thế Hồ Chí Minh không thể nói như Nguyễn trãi xưa:
“Xã tắc từ đây vững bềnGiang sơn từ đây đổi mới.”
Bởi kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa nền độc lập của dân tộc ta khi ấy là bọn thực dân Pháp còn đang âm mưu tái chiếm nước ta. Đẩy lùi nguy cơ ấy sẽ phải là cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho rằng: “Độc lập tự do là quyền thiêng liêng nhất, là tài sản quý giá nhất mà mỗi dân tộc cần giành và giữ lấy”. Trong phần tuyên ngôn chính thức này, một lần nữa Hồ Chí Minh lại sử dụng cách lập luận hết sức chặt chẽ, sắc sảo của thể loại văn chính luận.
Bản tuyên ngôn chính thức khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nó nêu cao tinh thần, khát vọng tự do, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, đánh dấu trang sử vẻ vang nhất trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Tuyên ngôn độc lập còn là áng văn chính luận mẫu mực của nền văn học Việt Nam.
Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực – Mẫu 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Trong đó bản “Tuyên ngôn độc lập” của Người được coi là “áng văn chính luận mẫu mực của mọi thời đại.
Trước hết, nét đặc sắc trong nghệ thuật lập luận của bản tuyên ngôn độc lập được thể hiện qua việc Bác đã xây dựng được một cấu trúc lập luận logic, chặt chẽ với ba luận điểm chính: cơ sở pháp lý, cơ sở thực tế và lời tuyên bố độc lập. Ở phần cơ sở thực tế, Người đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn độc lập của Pháp và Mỹ để khẳng định những quyền con người, quyền dân tộc (quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc…) của dân tộc Việt Nam. Sau đó, đến cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn, Bác đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp cùng với công cuộc đấu tranh của nhân dân ta và khẳng định tinh thần nhân đạo của Việt Minh – hay của chính dân tộc Việt Nam và tranh thủ sự ủng hộ của các nước Đồng minh. Cuối cùng là lời tuyên bố độc lập, khẳng định trước thế giới về nền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam, bày tỏ ý chí giữ vững nền độc lập ấy.
Khi xác định cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn độc lập, Người đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 để khẳng định quyền những quyền con người, quyền dân tộc của dân tộc Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 khẳng định “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; Còn Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đây là hai bản tuyên ngôn được quốc tế công nhận, vì vậy mà không ai có quyền bác bỏ những quyền lợi trên của con người. Đồng thời, Người cũng sử dụng một thủ pháp vô cùng độc đáo “gậy ông đập lưng ông” nhằm đánh vào kẻ thù xâm lược khi hành động của chúng đã làm vấy bẩn lên ngọn cờ nhân đạo và chính nghĩa mà tổ tiên họ đã phải chiến đấu mới có được. Việc đặt hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ – hai cường quốc lớn trên thế giới ngang hàng với bản tuyên ngôn của Việt Nam cho thấy được lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Cuối cùng, Bác chính dẫn nhưng trích dẫn một cách sáng tạo, thể hiện ở chữ “suy rộng ra..” để khẳng định quyền tự do của mỗi con người. Cách lập luận ở đây đầy khéo léo và sáng tạo.
Tiếp đến, Bác đưa ra những cơ sở thực tế với lý lẽ, dẫn chứng vô cùng xác đáng. Pháp luôn kể công khai hóa và bảo hộ dân tộc Việt Nam, thì nhân danh người dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã bác bỏ điều đó. Trong tám mươi năm thống trị nước ta chúng đã gây ra bao tội ác tày trời làm đau khổ người Việt Nam. Bác đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể, phong phú được chắt lọc từ những sự thật không thể chối cãi được. Pháp bóc lột nhân dân ta trong mọi mặt đời sống từ kinh tế, văn hóa – giáo dục đến mọi tầng lớp nhân dân. Trong hai năm, chúng bán nước ta hai lần cho Nhật, trong khi Việt Minh cứu giúp cho nhiều người Pháp thì chúng lại nhẫn tâm giết chết số đông tù chính trị của ta. Như vậy, Bác khẳng định lại đó không phải là công mà là tội. Việc sử dụng những hình so sánh, ẩn dụ kết hợp với lối điệp cấu trúc “chúng…” đã góp phần không nhỏ vào việc chỉ ra những tội ác của kẻ thù. Đồng thời, Người cũng biểu dương tinh thần đấu tranh của nhân dân ta: cùng lúc phá bỏ ba xiềng xích lớn là thực dân Pháp, phát xít Nhật và chế độ phong kiến. Từ đó, khẳng định rằng quyền được tự do, độc lập của Việt Nam phù hợp với nguyên tắc dân tộc bình đẳng tại hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn để kêu gọi các nước Đồng minh cùng với cộng đồng quốc tế công nhận điều đó.
Cuối cùng là lời tuyên bố độc lập mang dáng vẻ của “bài thơ thần” khi xưa Lý Thường Kiệt đã từng cảnh báo kẻ thù:
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạmNhư đẳng hành khan thủ bại hư”
(Nam quốc sơn hà)
Người đã khẳng định: “Độc lập tự do vừa là quyền lợi, vừa là chân lý bất khả xâm phạm” và yêu cầu quốc tế phải thừa nhận: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Bác cổ vũ khích lệ tinh thần nhân dân: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Giọng điệu hùng biện của Lý Thường Kiệt khi xưa đã được Bác vận dụng sáng tạo đoạn cuối của bản “Tuyên ngôn độc lập”.
Tuy được viết theo lối văn chính luận nhưng bản tuyên ngôn của Người không hề khô khan, giáo điều mà vô cùng hấp dẫn, thuyết phục. Có thể thấy, “Tuyên ngôn độc lập” của chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một văn kiện lịch sử quan trọng của dân tộc.
Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực – Mẫu 6
“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được nhận xét là “áng văn chính luận mẫu mực nhất mọi thời đại”. Điều đó được thể hiện qua những giá trị nghệ thuật mà bản Tuyên ngôn đem lại.
Trước hết, “Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện có ý nghĩa chính trị, lịch sử to lớn. Đó là lời khẳng định quyền độc lập của dân tộc cũng như tư thế làm chủ của nhân dân. Đó cũng là tiếng nói đại diện cho quốc gia, dân tộc về quyết tâm bảo vệ nền độc lập của nhân dân đối với đất nước.
Là văn kiện chính trị, lịch sử song “Tuyên ngôn độc lập” không hề khô khan, giáo điều mà vô cùng dễ hấp dẫn, thuyết phục.
Đầu tiên, Hồ Chí Minh đã xây dựng cho bản Tuyên ngôn một kết cấu lập luận vô cùng chặt chẽ: cơ sở pháp lý, cơ sở thực tế và lời tuyên bố độc lập. Ở mỗi phần, cách lập luận chứng minh của Bác cũng vô cùng sáng tạo.
Về cơ sở pháp lý, Người đã không nhắc lại truyền thống vẻ vang của dân tộc như người xưa:
“Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lậpCùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
Mà Người đã khéo léo trích dẫn hai bản Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp. Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của cách mạng Mỹ: “”Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Từ đó Bác đã khẳng định những quyền con người, quyền dân tộc (quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc…) của dân tộc Việt Nam. Nhưng Người trích dẫn một cách sáng tạo khi nâng từ quyền cá nhân lên dân tộc: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Cách trích dẫn sáng tạo này đã cho thấy một tầm tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh.
Sau khi đưa ra cơ sở pháp lý, Bác đã chứng minh bằng cơ sở thực tế với hai luận điểm chính đó là: Tố cáo tội ác của thực dân Pháp, đồng thời biểu dương tinh thần đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Nếu như Pháp luôn kể công khai hóa và bảo hộ dân tộc Việt Nam, thì nhân danh người dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã bác bỏ điều đó. Trong tám mươi năm thống trị nước ta chúng đã gây ra bao tội ác tày trời làm đau khổ cho nhân dân ta. Bác đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể, phong phú được chắt lọc từ những sự thật không thể chối cãi được. Pháp bóc lột nhân dân ta trong mọi mặt đời sống từ kinh tế, văn hóa – giáo dục đến mọi tầng lớp nhân dân. Trong hai năm, chúng bán nước ta hai lần cho Nhật. Cuối năm 1945, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Việt Minh cứu giúp cho nhiều người Pháp thì chúng lại nhẫn tâm giết chết số đông tù chính trị của ta. Pháp luôn nêu cao ngọn cờ chính nghĩa của nước mẹ vĩ đại thì Hồ Chí Minh đã khiến chúng phải rơi vào thế “gậy ông đập lưng ông” – khéo léo nhắc nhở họ đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ chính nghĩa mà tổ tiên họ đã phải đổ biết bao xương máu mới có được. Như vậy, Bác khẳng định lại đó không phải là công mà là tội. Khi đưa ra tội ác của thực dân Pháp, Bác đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, ẩn dụ kết hợp với lối điệp cấu trúc “chúng…” góp phần vạch ra tội ác của kẻ thù. Sau đó, Người còn biểu dương tinh thần đấu tranh của nhân dân ta: cùng lúc phá bỏ ba xiềng xích lớn là thực dân Pháp, phát xít Nhật và chế độ phong kiến. Cách mạng tháng 8 thành công với thắng lợi vẻ vang đã đem lại nền độc lập tự do cho nhân dân Việt Nam. Từ đó, khẳng định rằng quyền được tự do, độc lập của Việt Nam phù hợp với nguyên tắc dân tộc bình đẳng tại hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn để kêu gọi các nước Đồng minh cùng với cộng đồng quốc tế công nhận điều đó. Người khéo léo thuyết phục đồng minh rằng: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”. Lí lẽ của Người đã chỉ ra nếu các nước đồng minh không chịu công nhận nền độc lập của Việt Nam thì có nghĩa là đồng minh đang phản bội lại chính mình.
Cuối cùng là lời tuyên bố độc lập mang dáng vẻ của “bài thơ thần” đã từng vang vọng trên sông như Nguyệt: “Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!” Giọng điệu hùng hồn, lời lẽ quyết đoán đã thể hiện được tinh thần của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Quả thật, “Tuyên ngôn độc lập” chính là một “áng văn chính luận” với những giá trị to lớn về nghệ thuật thể hiện được tài năng lập luận của Hồ Chí Minh.
Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực – Mẫu 7
Hồ Chí Minh – vị cha già của dân tộc Việt Nam, người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, suốt cả một đời Người đã dành trọn vẹn vì hạnh phúc của nhân dân, hòa bình độc lập của dân tộc. Người dân Việt Nam sẽ không bao giờ có thể quên được ngày 2 tháng 9 năm 1945, vào thời khắc ấy tại quảng trường Ba Đình – Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” trước toàn thể đồng bào, khai sinh ra nước Việt Nam. Có thể nói bản tuyên ngôn là một tác phẩm có giá trị lớn về văn học, lịch sử đặc biệt là tính chính luận mẫu mực trong bản tuyên ngôn.
“Tuyên ngôn độc lập” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chính luận của Hồ Chí Minh, các tác phẩm văn chính luận của Người thường có lối lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, dẫn chứng xác đáng và luôn đề cao tính luận chiến. Có thể khẳng định tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” là một văn bản chính luận mẫu mực bởi tác phẩm có kết cấu rõ ràng, lập luận chặt chẽ và ngôn từ mang tính chính trị cao. Về kết cấu của bản tuyên ngôn rất rõ ràng, được chia làm ba phần mạch lạc và liên kết chặt chẽ với nhau. Ở phần một hay chính là lời mở đầu bản tuyên ngôn tác giả đã đưa ra những cơ sở pháp lý vững chắc, trích nguyên văn những lời tuyên bố của người Pháp và người Mỹ khẳng định quyền tự do, bình đẳng của con người là quyền sống. Tác giả đã đặt cuộc cách mạng của ta ngang hàng với những cuộc cách mạng lớn trên thế giới, đặt bản tuyên ngôn của dân tộc Việt Nam ngang hàng với những bản tuyên ngôn bất hủ trên thế giới, đặt tư thế của Việt Nam ngang hàng với các cường quốc trên thế giới. Tiếp đến phần thứ hai, tác giả lại đưa ra những cơ sở thực tiễn, hay chính là lời tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với người dân Việt Nam. Nếu Pháp đưa ra luận điệu có công khai hóa Đông Dương thì bản tuyên ngôn chỉ rõ Pháp không có công mà chỉ có tội. Cụ thể về chính trị Pháp đã tước đoạt quyền tự do dân chủ, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, khủng bố giết chóc rồi thi hành chính sách ngu dân, đầu độc giống nòi. Về kinh tế Pháp đã bóc lột, cướp đoạt và phong tỏa nền kinh tế của ta, đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, khiến dân ta đói khổ, nghèo nàn. Nếu Pháp nói có công bảo hộ Đông Dương thì bản tuyên ngôn cũng chỉ rõ trong 5 năm Pháp đã bàn nước ta hai lần cho Nhật. Những lời tố cáo đã chỉ rõ Pháp là tên xâm lược bạo tàn và tên thực dân hèn nhát. Bên cạnh lời tố cáo tác giả còn nên lên những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như truyền thống khoan hồng, nhân đạo, truyền thống anh hùng, những truyền thống ấy khẳng định Việt Nam đủ tư cách để hưởng quyền độc lập. Phần cuối cùng là lời tuyên bố, đúc kết lại từ những cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn, thứ nhất là phủ nhận hoàn toàn vai trò của Pháp trên đất nước ta, thứ hai là tranh thủ dư luận thế giới bằng cách nêu cao tinh thần độc lập dân chủ và kết lại bằng lời tuyên bố, tuyên thệ, tuyên bố về nền độc lập của Việt Nam và thề hi sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập ấy.
Sự mẫu mực của văn bản chính luận còn nằm ở cách lập luận chặt chẽ, đanh thép của Hồ Chí Minh. Trong phần mở đầu thể hiện lối lập luận vừa khéo léo vừa kiên quyết, Người dùng chính lời của người Pháp và Mĩ là đối tượng có âm mưu xâm lược Việt Nam để nhắc họ rằng họ đang tự giẫm đạp lên chính nghĩa, lẽ phải tổ tiên của mình xác lập. Ở phần tố cáo, tác giả lại dùng lối lập luận gián tiếp để khẳng định quyền độc lập, lời khẳng định được thể hiện qua lời tố cáo và mượn lời tố cáo để khẳng định. Bên cạnh đó việc lấy dẫn chứng xác đáng bao gồm những dẫn chứng từ sự thật lịch sử không thể chối cãi đã giúp bản tuyên ngôn có sức thuyết phục cao. Những sự thật lịch sử như việc người Pháp cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, năm 1940 Nhật xâm lăng Pháp mở cửa nước ta đón nhật khiến ta phải chịu hai tầng xiềng xích, làm cho “từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”. Đó toàn là những sự thật hiển nhiên, người thật việc thật không có gì có thể chối cãi được. Việc sử dụng ngôn từ của Hồ Chí Minh trong bản tuyên ngôn có ý nghĩa rất lớn quyết định tính chính luận mẫu mực của văn bản. Ngôn từ mang màu sắc chính trị thể hiện rõ lập trường tư tưởng và tầm nhìn đầy chiến lược của vị lãnh tụ vĩ đại, đồng thời những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm như đại từ “chúng”, những hình ảnh ẩn dụ “bóc lột…xương tủy”, “tắm trong bể máu” đã thể hiện được lòng yêu nước, yêu dân sâu sắc của Hồ Chí Minh, văn bản là sự kết hợp giữa lí trí và tình cảm khiến cho sức thuyết phục càng cao.
Như vậy qua việc làm sáng tỏ kết cấu, cách lập luận và ngôn từ của bản “Tuyên ngôn độc lập” chúng ta có thể khẳng định rằng “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh là một áng văn chính luận mẫu mực, có giá trị ý nghĩa không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn với cả những dân tộc đang bị áp bức trên thế giới.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!