Dàn ý phân tích bài thơ Tương tư (Nguyễn Bính) | Văn mẫu 11
Hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài thơ Tương tư của nhà thơ Nguyễn Bính chi tiết để hiểu rõ hơn tình cảm chân thành của chàng trai dành cho cô gái, một thứ tình yêu chỉ là đơn phương, qua đó triển khai ý để viết bài được tốt hơn.
Bài viết bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Xác lập luận điểm
- Lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tương tư
- Bài văn mẫu hay tham khảo
I. Luận điểm bài thơ Tương tư (Nguyễn Bính)
– Luận điểm 1: Chàng trai bày tỏ nỗi tương tư của mình
+ Khái quát nỗi lòng nhớ mong, tương tư
+ Lời trách móc, bộc bạch của chàng trai
– Luận điểm 2: Khao khát hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn
Để nắm được bố cục cũng như hiểu sâu sắc hơn nội dung bài thơ, các em có thể theo dõi lại phần soạn bài Tương tư, từ đó có cách triển khai nội dung bài phân tích Tương tư tốt hơn.
Sơ đồ tư duy bài Tương tư
II. Chi tiết dàn ý phân tích bài thơ Tương tư
1. Mở bài phân tích Tương tư
– Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Bính và bài thơ Tương tư.
– Dẫn dắt vào bài thơ: có thể ghi lại nội dung bài thơ.
Ví dụ:
Trong các nhà Thơ mới, Nguyễn Bính được xem là nhà thơ thành công trong mảng thơ dân dã. Bài thơ dân dã nào của ông cũng dậy lên được hồn quê. Hồn quê ấy là sự hòa điệu của nhiều yếu tố thuộc cả nội dung và hình thức, nhưng nổi bật vẫn là sự hòa quyện giữa giọng điệu quê với lối nói quê và lời quê, đặc biệt là qua bài thơ Tương tư.
2. Thân bài phân tích Tương tư
a) Luận điểm 1: Chàng trai bày tỏ nỗi tương tư của mình
* Khái quát nỗi lòng nhớ mong, tương tư
– Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa.
+ Trên thực tế, từ “tương tư” thường dùng diễn tả nỗi nhớ đơn phương.
+ Tương tư là tâm trạng nảy sinh khi có sự xa cách về không gian và cả về thời gian (cũng có nhưng khi chưa có xa cách thực, vẫn nảy sinh tương tư).
+ Ngọn nguồn của nỗi tương tư là khao khát được gần kề, được chung tình.
– Tâm lí tương tư thường có hai mặt trái ngược và biện chứng với nhau.
+ Một mặt, khoảng cách thực được nhân lên gấp bội, trở nên xa diệu vợi hơn sự thực.
+ Mặt khác, nhớ thương chính là một nỗ lực để vượt lên khoảng cách, giăng qua thời gian và không gian như một nhịp cầu vượt qua mọi xa cách.
+ Tâm lí tương tư cũng phức tạp: không chỉ có nhớ nhung, thương cảm, mà còn đầy những ước ao và có cả giận hờn, trách móc.
-> Vì vậy khi giãi bày nỗi tương tư, không chỉ có những lời bộc bạch xuôi chiều, còn có cả những lời dỗi hờn bóng gió, thậm chí những lối nói mát mẻ, vòng vo, lấp lửng. Nhưng do xuất phát từ nỗi nhớ thương và khao khát dành cho nhau nên tất cả những lời ấy đều dễ thương, dễ nghe.
=> Như vậy, tương tư chính là dạng thức sống động nhất của tình yêu, không chỉ biểu hiện nỗi nhớ nhung đơn thuần mà còn là một phức hợp cảm xúc đa dạng với những diễn biến không hề xuôi chiều.
– Nỗi tương tư diễn biến qua những sắc thái cảm xúc chính đan xen và chuyển hóa nhau rất tự nhiên, chân thực:
+ Nhớ nhung: câu 1 – câu 4.
+ Băn khoăn hờn dỗi: câu 5, câu 6.
+ Than thở: câu 7, câu 8.
+ Hờn trách mát mẻ: câu 9 – câu 14.
+ Nôn nao mơ tưởng: câu 15, câu 16.
+ Ước vọng xa xôi: câu 17 – câu 20.
* Lời trách móc, bộc bạch của chàng trai
– Trong bài thơ, chàng trai có ý trách cô gái.
+ Bề ngoài, điều này là vô lí. Trong tình yêu, người chủ động phải là anh con trai, đằng này anh lại trong vai thụ động ngồi đợi chờ. Đã thụ động đợi chờ mà còn trách móc.
+ Nhưng bên trong lại không vô lí. Tác giả tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm. Đặt chàng trai vào vai thụ động chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tương tư. Hơn nữa, chàng trai hờn trách vì yêu. Do nỗi nhớ dày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững, nên sinh ra “hờn ngược trách xuôi”. Nói khác đi, trách chỉ là một cách bộc bạch tình yêu, cũng gọi là “trách yêu”.
+ Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái càng đậm nét chân quê hơn vì gắn liền với cảnh vật chốn quê: thôn làng, Đoài – Đông, đò giang, đầu đình, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau… Tất cả tạo ra không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện vừa là ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Và như thế, tình và cảnh sẽ quyện vào nhau.
b) Luận điểm 2: Khao khát hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hang cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài ngồi nhớ trầu không thôn nào?
– Tác giả mượn hình ảnh quen thuộc, mộc mạc “cau”, “giầu” để diễn tả tình yêu. Trầu cau để bắt đầu tình yêu đã đẹp, trầu cau để bắt đầu một cuộc sống gia đình, một đám cưới còn đẹp hơn. Có trầu thì phải có cau, màu trầu cau thì hai ta đã sẵn.
– Thay đổi cách xưng hô “tôi – em” thành “anh – em”
=> Sự mạnh dạn chuyển đổi cách xưng hô, cách gọi thân mật. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái.
c) Đánh giá đặc sắc nghệ thuật
– Thể thơ lục bát vừa hiện đại vừa phảng phất ca dao với giọng điệu, cách ví von, cách lựa chọn và tổ chức lời thơ, cách đưa khẩu ngữ nhuần nhuyễn vào thơ.
– Tạo hình ảnh độc đáo: hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông
– Dùng chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian: địa danh thôn Đoài, thôn Đông, thành ngữ Chín nhớ mười mong, số từ “một”, “chín”, “mười”, “một”.
– Cách tổ chức lời thơ độc đáo đã đẩy đối tượng về hai đầu câu thơ tạo khoảng cách xa: Thôn Đoài… thôn Đông, Một người… một người. Nhất là câu sau, hai đối tượng ở hai đầu xa cách, giữa họ là nhịp cầu chín nhớ mười mong.
3. Kết bài phân tích Tương tư
– Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật bài Tương tư:
+ Nội dung: Bài thơ thể hiện tâm trạng tương tư của một chàng trai quê với những diễn biến chân thực mà tinh tế, trong đó mối duyên quê và cảnh quê hòa quyện với nhau thật nhuần nhị.
+ Nghệ thuật: Tương tư ghi đậm phong cách thơ Nguyễn Bính với thể lục bát tích hợp và phát huy một cách xuất sắc những truyền thống dân gian trong sáng tạo Thơ mới.
III. Những bài văn hay phân tích nội dung bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
Sau khi đã xây dựng được hoàn chỉnh dàn ý phân tích Tương tư, để mở rộng thêm vốn từ ngữ và cách trình bày trước khi chắp bút làm bài, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu phân tích bài thơ Tương tư hay do Đọc Tài Liệu tổng hợp dưới đây:
1. Phân tích bài Tương tư mẫu số 1:
Với phong cách thơ bình dị, nhẹ nhàng, chân chất, Nguyễn Bính được xem là nhà thơ của đồng nội. Thơ Nguyễn Bính đi sâu vào tâm hồn người đọc bằng chất “quê” đặc biệt, chất “quê” của nông thôn Việt Nam. Tình yêu trong thơ ông rất đỗi ngọt ngào, sâu lắng và dìu dặt như chính con người ông. Bài thơ “Tương tư” rút trong tập “Lỡ bước sang ngang” giãi bày tâm sự thầm kín của một người đang yêu, đang thương nhớ, đang khắc khoải và mong chờ đau đáu. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Bính đặt tên bài thơ là “Tương tư”, đây là cảm giác nhớ thương của một kẻ đang yêu, nói đúng hơn là của kẻ yêu đơn phương, đang mong chờ được đáp lại. Mối tình ấy được ấp ủ, được dồn nén thành lời qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhất:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Một không gian thôn quê hiện lên thật bình dị, đơn sơ và yên bình đến lạ. Thủ pháp nhân hóa được sử dụng rất tài tình, tinh tế. Tác giả mượn “thôn Đoài” và “thôn Đông” để nói lên nỗi nhớ từ tận sâu đáy lòng của mình. Chắc hẳn rằng người mà tác giả đang tương tư ở thôn Đông, còn tác giả lại ở thôn Đoài. Mối tình ấy ẩn mình trong sự thanh mát và bình dị của đồng quê.
Tinh tế và sâu sắc hơn nữa tác giả đã mượn chuyện nắng của của giời để trải lòng mình. Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh đã tiềm ẩn trong chính con người mình, cũng rất đỗi bình thường như bao chuyện khác, giống như quy luật của đất trời.
Chỉ với bốn câu thơ ấy đã khiến người đọc thích thú muốn tìm hiểu về mối tương tư của anh chàng thôn Đoài và cô nàng thôn Đông này. Tuy nhiên đến những câu thơ tiếp theo, dường như lại là lời trách móc nhẹ nhàng và rất chừng mực. Trách cô gái hững hờ, trách người ta sao lại vờ như không biết gì như thế:
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi ?
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho ?
Bao giờ bến mới gặp đò ?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau ?
Những câu hỏi dồn dập, nối tiếp nhau tạo nên sự bối rối, lo lắng và chồng chất nỗi niềm trong lòng chàng trai đang yêu. Tác giả đã mượn lối nói dân gian của ca dao, dân ca để hỏi dò cô gái sao lại hững hờ như vậy.
Giọng điệu của câu thơ nhẹ nhàng, uyển chuyển, tha thiết như truyền tải thông điệp đến cho cô gái. Từ “cớ sao” như một lời trách nhưng lại rất tế nhị, đáng yêu. Mối tương tư của chàng trai trằn trọc suốt bao nhiêu đêm, nhưng chẳng biết ngỏ cùng ai, rồi cũng chẳng ai thấu cho. Bởi vậy mà chàng trai chỉ chờ đợi “bến gặp đò” để mình có thể gặp nàng. Nỗi băn khoăn trong lòng chàng trai cứ chồng chất, cứ dai dẳng và đợi chờ.
Và rồi chàng trai lại tự hỏi:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?
Nhịp điệu của thơ lục bát uyển chuyển, nhẹ nhàng, tha thiết. Tác giả mượn “giàn trầu” và “hàng cau” để diễn tả nỗi nhớ da diết và quấn quýt như dây trầu quấn lấy thân cau. Nguyễn Bính thật khéo léo và tài hoa khi diễn tả nỗi nhớ bằng những hình ảnh thân quen và mộc mạc ấy. Ở bốn câu thơ này, người đọc nhận ra có sự thay đổi giữa cách xưng hô, tác giả đã mạnh dạn chuyển “tôi – nàng” thành “anh – em” rất táo bạo. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình này đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái.
Cái “tôi” trữ tình của Nguyễn Bính đã được đẩy cao lên, dám bày tỏ, dám yêu. Nhưng tình cảm đó không táo bạo mà ngược lại rất chân thành, mãnh liệt, đồng thời lại rất tế nhị.
Qua việc phân tích bài thơ Tương tư, ta thấy bằng những vần thơ gần gũi, chân thành, đậm hương vị đồng quê, tác giả đã gieo vào lòng người đọc những tình cảm nhẹ nhàng, tha thiết nhất của những người đang yêu. Bài thơ như một nốt nhạc trong lành và yên bình nhất.
2. Phân tích bài Tương tư mẫu số 2
Nguyễn Bính (1918 – 1966) tên khai sinh là Nguyễn Bính Tuyết. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, biết làm thơ từ năm 13 tuổi. Năm 1937, tập thơ Tâm hồn tôiđược Tự lực văn đoàn trao giải. Năm 1945, Nguyễn Bính vào Nam Bộ. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ rồi kháng chiến chống Pháp, ông ở lại tham gia kháng chiến Nam Bộ, phụ trách đoàn Văn hóa Cứu quốc tỉnh Rạch Giá. Sau đó, ông chuyển sang công tác ở Ban văn nghệ khu Tám, sáng tác thơ, viết truyện kí và tùy bút. Năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, tiếp tục sáng tác, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1956, ông chủ trương tờ báo Trâm hoa. Cuối đời, ông sống ở Nam Định.
Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Song trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ ca lãng mạn Pháp thì Nguyễn Bính về với văn hóa dân gian, gắn bó với môi trường bình dị, thân thuộc của đồng quê, qua những hàng cau, giàn trầu, rặng mồng tơi, cây đa, giếng nước, sân đình… Cùng với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… ông đã góp một dòng thơ, phái thơ riêng – Thơ mới dân gian, làm phong phú hơn cho thơ mới. Tương tư rút trong tập thơ Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính trước cách mạng.
“Tương tư” có nghĩa là nhớ nhau, nhưng tâm trạng tương tư không chỉ đơn thuần là nhớ nhung. Nỗi tương tư trong bài thơ này là một phức hợp các cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không hề xuôi chiều. Bắt đầu là sự nhớ nhung:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười thương một người
Rồi đến băn khoăn hờn dỗi:
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy không sang bên này?
đến than thở:
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
đến hờn trách mát mẻ:
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
rồi nôn nao mơ tưởng:
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau
đến những ước vọng xa xôi:
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Tất cả diễn biến theo lối xen lồng và chuyển hóa nhau rất tự nhiên, chân thực. Trong bài thơ, chàng trai có ý trách móc cô gái. Bề ngoài, điều này là vô lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là người con trai, đằng này lại trong vai thụ động ngồi chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tâm tư của một người trai quê như thế.
Thứ hai, lối trách móc này không phải vì ghét, không giống như sự quy kết trách nhiệm, đổ lỗi thông thường. Mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ mong giày vò người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững, nên sinh ra “hờn ngược, trách xuôi” thôi, không có hàm ý ghét bỏ. Nói khác đi, trách chỉ là một cách bộc bạch tình yêu. Người đời cũng gọi thế là “trách yêu”. Người xưa nói:
“Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”
(Một ngày không gặp mặt dài như ba mùa thu)
Để chỉ nỗi nhớ mong của những người đang yêu. Trong bài thơ này, tâm trạng đang chờ đợi, nhớ mong cũng được diễn đạt bằng những hình ảnh thật sắc sảo:
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Câu lục ngắt nhịp 3/3 phá đi cái nhịp thông thường của thơ lục bát (2/2/2). Ý và lời vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt nhịp này khiến chữ” lại” ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới chỉ còn là sự lặp lại ngày cũ một cách chán ngán và vô vọng. Cả việc ngắt nhịp, lặp lại vế câu và nói nhấn giọng ở chữ “lại” khiến cho giọng thơ vang lên như một lời than thở, kể lể ngán ngẩm. Tất cả điều đó làm hiện lên hình ảnh của một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mỏi mòn.
Câu hát diễn tả thời gian và tâm trạng một cách thật tinh tế và ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp sốt ruột, nhưng mới qua lời kể lể thôi. Đến câu này, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu, đúng hơn, thời gian hiện lên qua việc chuyển màu: lá xanh chuyển thành lá vàng. Ngày anh bắt đầu đợi chờ, cây hãy còn xanh, đến nay lá xanh đã ngả sang vàng cả rồi, thế mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng. Thời gian càng chậm, tâm trạng càng nặng nề, tâm trạng càng mỏi mòn nôn nóng, thời gian càng chậm chạp lê thê. Nhưng điều tinh tế nhất là ở chữ “nhuộm”.
Thứ nhất, “nhuộm” diễn tả được thời gian chậm chạp. Thứ hai,” nhuộm” để ngỏ chủ thể. Ai nhuộm? Chủ thể này hàm ẩn. Không gian thời gian, cũng không hẳn là sự chuyển biến nội tại của cây lá. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuộm cây héo úa. Kẻ tương tư và cái cây ấy có mối tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhân của bệnh tương tư, mà tựu trung, là hiện thân của nỗi tương tư đó. Có thể xem cái kia cũng là cây tương tư được chứ sao! Lối diễn đạt như thế thật tinh tế, ý nhị. Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê.
Trong nỗi nhớ nhung của chàng trai hiện lên những chi tiết về những địa danh, cảnh vật, cây cỏ… thuộc về chốn quê bao đời: thôn Đoài, thôn Đông, đò giang, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau…
Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí là ngôn ngữ nữa để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Có như thế, tình và cảnh mới có thể hòa quyện vào nhau được. Trong bài thơ này, trước hết thể hiện ở cách tạo ảnh độc đáo: hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông, đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra và khái quát thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông.
Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng, mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn, chính vì có người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo ra cho thủ pháp nhân hóa: “Thôn Đông ngồi nhớ…”. Nhưng sâu xa hơn, nó còn biểu đạt được cả một quy luật tâm lí. Khi tương tư, thì cả không gian sinh tồn bao quanh chủ thể như cũng nhuốm mọi tương tư ấy, vì thế mà có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.
Thứ hai, nó được thể hiện nghệ thuật sử dụng các chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian, địa danh “thôn Đoài”, “thôn Đông” dùng thành ngữ “chín nhớ mười mong”, dùng số từ “một”, “chín”, “mười”,… cách tổ chức lời thơ độc đáo: nhà thơ đã sử dụng bút pháp tài tình để tạo ra khoảng cách, “thôn Đoài… thôn Đông”, “một người… một người”. Nhất là ở câu sau, hai đối tượng ở hai đầu xa cách, giữa họ là nhịp cầu “chín nhớ mười mong”. Lối sử dụng ngôn từ này đã gợi được phong vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể lể rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư của nhân vật trữ tình.
Khát vọng lứa đôi trong mối tương tư này còn được biểu hiện tinh vi bằng nhiều cặp đôi trong bài: thôn Đoài – thôn Đông, một người – một người, gió mưa – tương tư, tôi – nàng, bên ấy – bên này, hai thôn – một làng, bến – đò, hoa khuê các – bướm giang hồ, nhà anh – nhà em, giàn giầu – hàng cau, cau thôn Đoài – giầu thôn Đông.
Các cặp đôi trên xuất hiện theo trình tự từ xa đến gần, cuối cùng dừng lại ở cặp đôi giầu – cau. Điều ấy cho thấy rõ, bên dưới nỗi tương tư là niềm khát khao gần kề, khao khát chung tình, khao khát nhân duyên, tình yêu gắn với hôn nhân là một đặc điểm quan niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Bính (cũng giống với ca dao). Điều này thêm một minh chứng để khẳng định thêm rằng chất truyền thống, chất chân quê đã thấm sâu vào hồn thơ Nguyễn Bính.
Bằng tài hoa và tâm huyết với thơ ca dân gian, Nguyễn Bính là một trong số ít các nhà thơ mới giữ được chút “hương đồng gió nội” cho thơ mình. Sức hấp dẫn của “Tương tư” không chỉ là ở chuyện “tương tư” mà còn ở tấm lòng tha thiết với quê hương, với cảnh, với người; ở sự nâng niu trân trọng của nhà thơ đối với nghệ thuật dân tộc.
Vậy là các em vừa tham khảo mẫu dàn ý phân tích bài Tương tư của Nguyễn Bính do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn. Hi vọng thông qua những gợi ý của bài viết, các em sẽ tự xây dựng được dàn ý chi tiết hơn để làm một bài văn hay, đầy đủ ý. Chúc em học tốt !
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!