Dàn ý cảm nhận về đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – Toploigiai
Mời các em tham khảo dàn ý cảm nhận về đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán (Truyện Kiều – Nguyễn Du) của Top lời giải dưới đây để nắm được các ý chính cần triển khai cho bài văn cảm nhận về đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán và củng cố thêm kiến thức về tác phẩm.
Dàn ý cảm nhận về đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán
a) Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả, đoạn trích:
+ Nguyễn Du (1765 – 1820) là một người có hiểu biết sâu rộng, vốn sống phong phú.
+ Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán là đoạn trích rất đặc sắc tả lại cảnh Thuý Kiều báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư.
b) Thân bài
* Khái quát về đoạn trích:
– Vị trí đoạn trích: Thúy Kiều báo ân báo oán được trích từ phần sau đoạn “Kiều gặp Từ Hải” (từ câu 2289 đến câu 2450 của Truyện Kiều)
– Nội dung chính: Miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn (Thúc Sinh), đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác (Hoạn Thư).
* Thúy Kiều báo ân Thúc Sinh
– Thúc Sinh được mời đến trong cảnh oai nghiêm nơi Kiều xử án:
“Cho gươm mời đến Thúc Lang”
– Kiều biết ơn Thúc Sinh
+ Đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh.
+ Cho nàng về làm vợ lẽ (dù phải chịu nhiều đau đớn hơn phận tôi đòi).
+ Trân trọng Thúc Sinh
– Kiều đền ơn Thúc Sinh: “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân”.
– Nhắc đến những việc mà Hoạn Thư đã gây ra cho mình.
– Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng nhiều từ Hán Việt (chữ tòng, cố nhân, sâm thương), những điển cố, cách nói sang trọng, phù hợp với việc thể hiện lòng biết ơn.
-> Cách cư xử tế nhị, khôn khéo của Thúy Kiều khi báo ân Thúc Sinh.
=> Kiều là người có bản chất vị tha, thông minh, sáng suốt và sống có tình nghĩa.
* Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư
– Kiều và Hoạn Thư gặp nhau lần này trong vị thế đã thay đổi:
+ Vị thế của Thúy Kiều:
Lúc ở nhà Hoạn Thư là nô tì, vợ lẽ.
Giờ là phu nhân quan tòa (người xét xử)
+ Vị thế của Hoạn Thư:
Lúc trước là chủ nhà.
Giờ là bị cáo (người bị xét xử)
– Cử chỉ “chào thưa”, cách xưng hô “tiểu thư” : thể hiện thái độ mỉa mai, đay nghiến, đe dọa với những hình phạt khủng khiếp đối với Hoạn Thư và danh gia nhà họ Hoạn.
– Thái độ của Hoạn Thư: tuy sợ nhưng vẫn tỏ ra là người khôn ngoan, gian xảo.
+ Đầu tiên, dựa vào cớ mình là phụ nữ hay ghen để gỡ tội.
+ Khôn khéo gợi lại những việc làm nhân nghĩa đối với Kiều: cho chép kinh ở Quan Âm Các, không bắt giữ khi Kiều bỏ trốn.
+ Tự nhận lỗi về mình.
=> Hoạn Thư là một người khôn ngoan, quỷ quyệt, biết biến nguy thành an.
– Trước lí lẽ sắc bén của Hoạn Thư, Kiều đã:
+ Khâm phục tài trí, miệng lưỡi của Hoạn Thư.
+ Phân vân, khó xử.
+ Răn đe và tha bổng cho Hoạn Thư.
-> Kiều là người độ lượng, khoan dung, vị tha và nhân hậu.
=> Nguyễn Du đã dùng những từ ngữ mang tính ước lệ và ngôn ngữ nôm na, bình dân, thành ngữ dân gian. Sự trừng phạt cái ác theo quan điểm nhân dân phải được diễn tả bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
* Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích
– Xây dựng những đoạn đối thoại đặc sắc
– Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ
– Khắc họa, miêu tả và xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại
– Từ ngữ mang tính ngôn ngữ nôm na, bình dân
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.
c) Kết bài
– Nêu cảm nhận của em về đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán.
Cảm nhận về đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – Bài mẫu
Đã bước sang thế kỉ XXI nhưng Nguyễn Du và Truyện Kiều vẫn có sức hấp dẫn lớn đối với hàng triệu độc giả Việt Nam và thế giới. Cho đến nay Nguyễn Du vẫn là đại thi hào duy nhất của dân tộc, Thúy Kiều vẫn là kiệt tác số một của văn học Việt Nam. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Du viết: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, câu thơ ấy đã bộc lộ rất rõ quan điểm đề cao chữ tâm cũng như trái tim giàu lòng yêu thương của tác giả. Tấm lòng ấy phần nào được bộc lộ qua cách xử sự hết sức nhân văn trong đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán”.
Dân gian ta có câu “Ơn đền oán trả”, quan điểm ấy đã thể hiện một thái độ rạch ròi, dứt khoát trong cách sống của người Việt. Có lẽ cách sống ấy đã có từ ngàn đời nay, được thử thách qua thời gian. Cho đến nay nó vẫn còn nguyên vẹn giá trị, chỉ có điều ơn trả thế nào, oán báo ra sao cho có văn hóa thì thật khó. Trong đoạn trích này thông qua việc báo ân oán của Thúy Kiều, đã gián tiếp bộc lộ văn hóa ứng xử của mình, chính ở đây tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Trước hết là báo ân:
Cho gươm mời đến Thúc Lang,
…………
Mưa sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Thực ra đoạn không chỉ gồm báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư mà còn báo ân với Giác Duyên; báo oán với:
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà.
Bên là Ưng Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinh…
Tuy vậy đoạn trích đã lược bớt để làm nổi bật cuộc đối thoại giữa Kiều với Thúc Sinh và Hoạn Thư mà vẫn đảm bảo nội dung ơn đền, oán trả. Trước tiên là báo ân, âu đó cũng là việc làm hợp lẽ đời. Thúc Sinh được mời đến trong cảnh oai nghiêm nơi Kiều xử án “Cho gươm mời đến Thúc Lang”. Hình ảnh “gươm” nói rõ quyền uy mà Kiều đang có trong tay nhờ gặp được Từ Hải – người anh hùng “đội trời đạp đất”. Kiều giờ đây thật vững vàng, từng trải để nhận ra người ơn, kẻ oán, hoàn toàn khác xa với cô Kiều với thân phận “con ong, cái kiến” trước kia. Chứng kiến sự uy nghiêm đó Thúc Sinh tỏ ra sợ hãi đến mức mất cả thần sắc “mặt như chàm đỏ” và người run như con chim dẽ. Hình ảnh tội nghiệp ấy hoàn toàn phù hợp với tính cách có phần nhu nhược của Thúc Sinh. Và đó cũng là chi tiết có ảnh hưởng đến cách báo oán Hoạn Thư ở đoạn sau.
Sau hai câu đầu nói về Thúc Sinh, mười câu thơ còn lại là đoạn đối thoại của Kiều với Thúc Sinh. Qua lời nói của Kiều có thể thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ của Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn, nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”. Đó là một cách so sánh rất cao, nghĩa nặng như hàng ngàn trái núi. Để xưng hô với Thúc Sinh có lúc Kiều gọi chàng là “người cũ” mang sắc thái thân mật, gần gũi; lúc lại dùng “cố nhân” mang sắc thái trang trọng, kính trọng. Có lẽ đó cũng là hai sắc thái tình cảm Thúy Kiều dành cho Thúc Sinh.
Với Kiều việc Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục, cho nàng những ngày tháng êm ấm trong cuộc sống gia đình là cái ơn vô cùng lớn mà cô không thể nào trả hết “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” cũng chưa dễ xứng với ơn nghĩa đó. Cao hơn cả vật chất chính là tấm lòng “nghĩa nặng nghìn non” mà cô dành cho chàng Thúc. Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng những từ Hán Việt: nghĩa, chữ tòng (theo), cố nhân, tạ lòng…điển cố Sâm Thương. Cách nói trạng trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc, đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Thúy Kiều đối với Thúc Sinh.
Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư. Bởi vì nàng hiểu nỗi đau khổ của nàng khi gắn bó với Thúc Sinh không phải do chàng gây ra mà thủ phạm chính là Hoạn Thư “Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”. Vẫn đang nói với Thúc Sinh nhưng khi nói về Hoạn Thư ngôn ngữ của Kiều lại hết sức nôm na, bình dị. Nàng dùng những thành ngữ quen thuộc “kẻ cắp bà già gặp nhau” hay “kiến bò miệng chén”. Cách nói ấy vừa tạo ngữ điệu đanh hơn vừa theo quan điểm “ác giả ác báo” của nhân dân nên mươn luôn lời ăn tiếng nói của nhân dân để diễn đạt. Từ cách nói này để cô chuyển sang Hoạn Thư – báo oán. Đoạn này gồm những lời đối thoại trực tiếp giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư. Trong hai đoạn lời nói của Kiều lộ rõ thái độ mỉa mai với Hoạn Thư. Nàng vẫn cố tình giữ thái độ và cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô trong nhà họ Hoạn:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây.
Thái độ “chào thưa” hay gọi Hoạn Thư là “tiểu thư” khi giữa hai người đã có sự thay đổi ngôi thứ, nhất là vào lúc này Kiều đang ngồi ở ghế xử án và Hoạn Thư là kẻ có tội thì điều đó quả là một đòn mỉa mai quất mạnh vào danh gia họ Hoạn. Nhưng không dừng lại ở đó sang những câu nói sau giọng của Kiều đã dần thay đổi, giọng đay nghiến, phẫn uất càng ngày càng tăng tiến. Người ta như cảm nhận được giọng nói rành rọt từng tiếng đang dằn ra, nhấn mạnh:
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.
Cách nói này quả là xứng với lối đối đáp “vỏ quýt dày có móng tay nhọn” nếu không cái mụ nham hiểm giết người không dao ấy lại lấn lướt như trước kia Kiều đã từng chịu trận. Đến đây ta thấy thái độ quyết trừng trị Hoạn Thư của Kiều cho bõ những ngày tháng Kiều bị mụ ta hành hạ.
Vậy liệu Hoạn Thư đối phó thế nào trước thái độ ấy.
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.
Quả thật là khôn ngoan đến giảo hoạt. Nhận thấy điều bất lợi đang đến gần mụ ta đã cố gắng trấn tĩnh để “liệu điều kêu ca”.
Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Một câu nói thật khôn khéo đến mức tinh vi. Thứ nhất mụ nói về tâm lý chung của phụ nữ: ghen tuông là chuyện thường tình, cách nói này vừa để kêu gọi lòng trắc ẩn của người đàn bà trong Kiều vừa có tính phổ quát. Thứ hai ngôn ngữ sắc như dao “chút phận” – hạ thấp mình thành nhỏ bé, “thường tình” – đó là chuyện bình thường chứ không đáng tội: “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”.
Qua miệng lưỡi biện bạch của mụ, tội nhân đã trở thành nạn nhân của chế độ đa thê. Mà đã là nạn nhân ai lại nỡ trừng trị. Hoạn Thư quả là một luật sư tự bào chữa cực giỏi. sau đó như lẽ tất yếu để “lấy lòng” Thúy Kiều, Hoạn Thư đã “kể công” với Kiều: cho nàng ra gác Quan Âm viết kinh, không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Cuối cùng Hoạn Thư nhận tội và trông chờ tấm lòng bao dung, độ lượng của Kiều:
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Quả thực đó là một bài đối thoại được sắp xếp chặt chẽ, logic, hợp lý. Qua lời đối thoại ấy Kiều phải thừa nhận đó là con người: “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”. Chính những lời nói đó khiến cho Kiều bị thuyết phục và phải phân vân:
Tha ra thì cũng mang đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Hoạn Thư đã biện bạch đến thế nếu Kiều quyết trả thù thì lại trở thành người nhỏ nhen, ích kỷ. Và thái độ của Kiều đã thay đổi so với đoạn trước. Hoạn Thư đã biết lỗi “Đánh người chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại”.
Như vậy qua đoạn trích này ta thấy Hoạn Thư quả là một người “quỷ quái, tinh ma”. Tất nhiên việc Hoạn Thư được tha bổng không chỉ vì có khả năng “tự bào chữa” mà chủ yếu là do tấm lòng vị tha độ lượng của Kiều. Qua đó tấm lòng nhân ái bao dung của người con gái ấy một lần nữa lại sáng lên.
Đoạn thơ là sự phản ánh ước mơ, khát vọng công lý chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du: người bị áp bức, đau khổ được ngồi ghế quan tòa cầm cán cân công lý để thực hiện triết lý sống của dân gian “ơn đền oán trả”.
-/-
Trên đây là dàn ý cảm nhận về đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán do Top lời giải sưu tầm được, mong rằng với nội dung tham khảo này các em có thể triển khai bài văn của mình tốt nhất, chúc các em học tốt môn Văn!
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!