TOP 11 bài Truyện ngắn Làng gợi cho em những suy nghĩ gì về
Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Truyện ngắn Làng gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm hay nhất, gồm 14 trang trong đó có sơ đồ tư duy, dàn ý phân tích chi tiết và 11 bài văn mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
TRUYỆN NGẮN LÀNG GỢI CHO EM NHỮNG SUY NGHĨ GÌ VỀ NHỮNG CHUYỂN BIẾN MỚI TRONG TÌNH CẢM
Video bài văn mẫu Truyện ngắn Làng gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm
Truyện ngắn Làng gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm – mẫu 1
Khác với nhiều nhà thơ nhà văn khác, Kim Lân là nhà văn được mọi người biết đến cây bút viết cho những người nông dân những năm kháng chiến chống Pháp cứu nước. Hình ảnh ông Hai được tác giả xây dựng trong bài là tượng trưng cho hình ảnh những người nông dân chân chất thật thà có tình yêu quê hương đất nước sâu nặng. Sự thành công trong việc miêu tả sự thay đổi tâm lí nội tâm nhân vật ông Hai qua đó thể hiện những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp
Kim Lân là nhà văn chuyên viết về truyện ngắn và đã có sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông sống gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn. Trong kháng chiến, ông tiếp tục viết về tinh thần kháng chiến của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Truyện thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, đó là tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh ông Hai trong tác phẩm tượng trưng cho hình ảnh những người nông dân lúc bấy giờ. Những chuyển biến tâm trang của ông bộc lộ rõ nét thông qua chi tiết ông khoe làng, khi nghe tin làng theo giặc và đến khi nghe ti được cải chính. Thông qua cách miêu tả tâm lí, nội tâm nhân vật, Kim Lân đã làm nên những giá trị nội dung, ý nghĩa cho tác phẩm.
Những dòng văn tiếp theo là những chuyển biến mới của tâm trạng khi nghe ông ở nơi tản cư, xa quê hương. Được giác ngộ lí tưởng cách mạng, trung thành với cách mạng, với tổ quốc thân yêu. ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, về việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Xa làng, ông nhớ quá cái không khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường hầm bí mật…” đã xong chưa? Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai đặc biệt qua cách ông khoe làng. Đó là niềm tự hào sâu sắc về một làng quê, có tính truyền thống của người nông dân. Mặc dù đang trong cảnh tản cư đi nơi khác những ông vẫn luôn quan tâm, để ý đến những thông tin đánh giặc đặc biết là những thông tin về ngôi làng của chính mình. Mặc dù không đọc được chữ nhưng ông vẫn đều đặn đến phòng thông tin nghe đọc báo, để rồi mỗi lần xuýt xoa khen ngợi trước những thông tin quân ta chiến thắng: “Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong” hay như “Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc”. Những thông tin ấy cứ làm ông “ múa cả lên” vui mừng khôn xiết. Đây là bước chuyển biến mới rất quan trọng về nhận thức và tình cảm của người nông dân trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Tình yêu làng gắn bó với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc. Nghe tin làng theo giặc, ông sững sờ, ông như không tin và chính những gì mình vừa nghe, sững sờ hỏi lại:” Có thật không hả Bác hay chỉ lại”. Nghe lời của người đàn bà bé con chì chiết, lòng ông càng đau đớn: “Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!” Ông bước đi trong xấu hổ và nhục nhã. Ông cúi gằm mặt xuống mà đi, lời của người đàn bà cho con bú ấy như ghim sâu vào tim ông vậy. Về nhà, nhìn các con, nghĩ càng tủi hổ vì “chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Kim Lân đã thành công trong việc miêu tả tâm lí, nội tâm nhân vật:” Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…” Thương con, ông gắt với chúng nhưng thực chất là muốn thể hiện tâm trạng đau đớn xót xa, giận những người ở lại làng: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Giận là thế nhưng rồi ông lại nghĩ lại. Ông ngờ ngợ không tin vào những gì mình vừa, nghe thấy. Ông nằm kiểm nghiệm lại tất cả, như muốn tìm ra lí do phủ nhận thông tin này, chứng minh rằng làng ông không phải Việt gian như lời họ nói. Rồi ông thương mình, thương cho những người cũng đang tản cư như ông liệu họ có rõ cơ sự này chưa,..Những ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cái tin nhục nhã ấy thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Không khí nặng nề bao trùm cả nhà. Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt. Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói như vậy nhưng thực lòng đau như cắt. Sau những tháng ngày dằn vặt, sống trong lo sợ, ông Hai đã trút hết tâm sự nỗi lòng của mình với đứa con út: “Thế nhà con ở đâu?/-Nhà ta ở làng chợ Dầu./-Thế con có thích về làng chợ Dầu không? Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:/-Có.” Đặc biệt khi ông hỏi thằng út ủng hộ ai, thằng bé không ngần ngại trả lời: “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm” thì đã bộc lộ tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất. Đó chính là lời thanh minh với Cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này. Qua đó, ta thấy: Tình yêu sâu nặng đối với làng Chợ Dầu truyền thống và tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến là Cụ Hồ được biểu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng: ” … có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.
Diễn biến tâm trang được chuyển biến khi ông Hai nghe được tin cải chính, mọi gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng Chợ Dầu. Ông vội vàng thông báo với mọi nhà: “ Tây nó đốt nhà tôi rồi các ông ạ”, làng ông bị giặc phá, nhà ông bị giặc đốt, tin làng theo giặc là “sai sự mục đích cả”. Cái cách ông đi khoe Tây đốt nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường. Việc ông rành rọt kể về trận chống càn ở làng Chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông. Kim Liên đã thành công trong việc miêu tả tâm lí nội tâm nhân vật. Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng. Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Ngôn ngữ của ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động. Tình cảm của ông Hai đối với ngôi làng của mình chính là biểu tượng tượng trưng cho tình yêu nước, quyết trung thành với đảnh của những người nông chân chân lấm tay bùn, hiền lành chất phác những năm khoáng chiến chống Pháp cứu nước. Tình yêu làng gắn liền với tình yêu Tổ quốc. Đây chính là nhận thưc mới của người nông dân những năm kháng chiến chống Pháp mà đại diện là ông Hai.
Tác phẩm khá thành công khi viết về lòng yêu nước, yêu làng của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Kim Lân đã thể hiện được tài năng của mình qua tác phẩm này. Đọc tác phẩm giúp ta hình dung được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của nhân dân, mọi người một lòng theo Bác, theo Đảng khánh chiến đến cùng, có lẽ vì vẫy mà cuộc chiến của ta đã dành được thắng lợi vẻ vang.
Sơ đồ tư duy
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
– Giới thiệu chung về tác phẩm và
– Nêu nhận định những chuyển biến tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp và đánh giá
II. Thân bài:
1, Khái quát đầu:
– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, nội dung và giải thích nhận định
2, Luận điểm chứng minh:
– Luận điểm 1: Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thống của người nông dân trong nhân vật ông Hai:
+ Ông Hai khoe làng, luôn tự hào về làng chợ Dầu
+ Ông không đọc được chữ nhưng ham đi đọc thông tin ở phòng đọc báo.
– Luận điểm 2: Tình yêu làng gắn bó với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.
+ Khi ông ngồi ở quán nước, nghe thấy người ta nói làng ông Việt gian, ông như không tin vào chính tai mình hỏi lại
+ Ông cúi gằm mặt đi về trong sự xấu hổ tủi nhục
+ Nằm suy nghĩ về bản thân, về ngôi làng, về những người tản cư làng mình liệu đã nghe tin này chưa, về lũ con còn nhỏ
+ Cuộc sống của ông những tháng ngày về sau đó là chuỗi ngày sống trong lo sợ, nghi ngờ và tủi nhục
+ Trò chuyện với thằng út, khẳng định lòng mình trung thành với Đảng
– Luận điểm 3: Khi tin làng được cải chính, ông vui sướng và tự hào về làng Chợ Dầu: niềm vui sướng hạnh phúc tột cùng của ông Hai khi nghe tin nhà mình bị đốt.
– Luận điểm 4: Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông Hai
+ Một lão nông cần cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với làng quê như máu thịt
+ Tình huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
+ Miêu tả cụ thể, gợi cảm qua các diễn biến nội tâm, ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ.
+ Các hình thức trần thuật (độc thoại, đối thoại…)
III. Kết bài:
– Sự hấp dẫn của hình tượng nhân vật ông Hai
– Thành công của nhà văn khi xây dựng nhân vật ông Hai
Các bài mẫu khác
Truyện ngắn Làng gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm – mẫu 2
Đề tài người nông dân trong kháng chiến là một trong những nguồn cảm hứng bất tận của thơ văn. Có rất nhiều tác giả thành công ở đề tài này tuy nhiên viết hay nhất chỉ có thể là Kim Lân. Ông được mệnh danh là nhà văn của những người nông dân. Tác phẩm Làng của ông, với nhân vật chính là ông Hai để cho người đọc nhiều suy ngẫm sâu sắc. Những chuyển biến trong tâm lí nhân vật ông Hai cũng chính là đại diện cho tầng lớp nông dân Việt Nam thời kháng chiến.
Truyện ngắn Làng được nhà văn sáng tác vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại. Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Hai cùng với những diễn biến tâm lí của nhân vật thể hiện tình yêu đất nước sâu sắc. Có thể nói nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi khắc họa thành công diễn biến tâm lí của nhân vật gắn liền với cốt truyện mang đến cho người đọc cái nhìn đa chiều nhất về chuyển biến tâm lí của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. Tình yêu đất nước yêu quê hương chung thành với cách mạng với Cụ Hồ đằm thắm và mộc mạc như những gì họ thể hiện vậy. Ông Hai là một người có tình yêu làng, yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình vô cùng sâu sắc. Ông sinh ra và lớn lên tại làng Chợ Dầu. Một ngôi làng từ chưa kháng chiến ông tự hào vì có cái dinh tổng đốc lớn nhất nhì nhưng sau khi cách mạng bùng nổ ông lại chuyển sang ca ngợi làng với toàn những đá xanh, cái chòi thông tin cao đến ngọn tre chiều chiều loa gọi cả làng ra nghe. Thế rồi khi có lệnh tản cư ông vì bất đắc dĩ lại phải xa làng. Thế nhưng tình yêu đó không bao giờ mất đi đến nơi tản cư thỉnh thoảng ngồi buồn ông lại nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nhớ về những người anh em đồng chí của mình.
Cái tin làng chợ Dầu đến như một cú sốc lớn trong cuộc đời của ông Hai. Nghe tin dữ ông bần thần cả người. Ông còn cố hỏi lại cho chắc hay nó chỉ là tin đồn thất thiệt. Chỉ khi nghe được câu “Chúng nó đi theo giặc hết rồi, từ thằng chủ tịch trở xuống”. Ông mới thôi hi vọng, lết từng bước nặng nhọc về đến nhà. Ông nằm vật ra đường, đau quá, nỗi đau nỗi tủi hổ như dày xéo tâm hồn ông. Ông gắt gỏng với cả người vợ của mình, mấy đứa con vì thế cũng chả dám cười đùa nữa. Suốt mấy ngày ông chẳng dám bước chân ra cổng vì sợ. Sợ ánh mắt dị nghị, sợ chỉ chỏ của những kẻ lắm lời. Sự khinh rẻ của mụ chủ nhà có ý định đuổi cả nhà đi càng khiến tâm trạng ông Hai trở nên suy sụp. Lúc này ông chỉ biết tìm đến tâm sự với các con, như một sự an ủi cuối cùng của cuộc đời mình. Ông hỏi chúng “có yêu nước không?”, “theo ai”… Tiếng con trẻ hùng dũng hô vang “theo cụ Hồ Chí Minh muôn năm ạ”. Ông cười một cách đầy chua xót. Những đứa trẻ tội nghiệp mang tiếng con làng Việt gian của ông đây rồi, đến chúng còn biết đến theo Cụ Hồ cơ mà vậy thì nỡ cơ sự nào lại thế được.
Ngay lúc này tâm trí của ông Hai bị dày vò một cách khốn khổ, mâu thuẫn tâm lí đến mức đỉnh điểm đầy ông vào một sự lựa chọn vô cùng khó khăn. Vốn trong cái tâm trí thâm căn cố đế chỉ có quê hương bởi lẽ với những người nông dân ngày xưa thì “ta về ta tắm ao ta/ dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” vậy mà ông đã phải đưa ra một quyết định vô cùng khó khăn “làng thì yêu thật nhưng làng theo giặc rồi thì phải thù”. Đến đây ông chỉ biết ôm lũ con vào lòng mà khóc, bởi ông biết rằng đó là một nỗi nhục vô cùng lớn trong cuộc đời ông. Chỉ đến khi nghe tin làng Chợ Dầu được cải chính từ ông chủ tịch xã niềm vui mới trở về trên môi ông. Ông lật đật mua kẹo về chia cho con, rồi lại lật đật chạy sang nhà bác Thứ hàng xóm để khoe cái tin làng Chợ Dầu không theo giặc, cả làng bị đốt sạch rồi. Với người ông dân con trâu, mảnh đất là sự nghiệp của cả đời họ thế nhưng lúc này nó chẳng là gì so với tình yêu nước. Niềm tin ý chí mãnh liệt đó đã trở thành một truyền thống quý báu của toàn dân tộc ta.
Với kết cấu chuyện đơn giản xoay quanh diễn biến tâm lí nhân vật ông Hai nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công bức tranh làng quê trong kháng chiến chống Pháp vĩ đại. Nó thể hiện niềm tin ý chí bất diệt vào Đảng vào Bác Hồ. Trở thành một trong những điểm sáng của cả dân tộc. Ông Hai đã nhận được nhiều tình cảm yêu mến của độc giả về tinh thần yêu nước sâu sắc, về diễn biến tâm lí vô cùng chân thực và thật của mình. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những tác phẩm vô cùng xuất sắc về đề tài người nông dân trước cách mạng. Nó chính là bức tranh sống động về tinh thần quả cảm, về ý chí mãnh liệt vào cách mạng thời bấy giờ.
Truyện ngắn Làng gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm – mẫu 3
“Làng quê”, hai tiếng thật êm đềm và thân thuộc biết bao. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ hướng ngòi bút của mình về giếng nước, gốc đa, con đò… hướng về những người nông dân thật thà, chất phác. Kim Lân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn và khai thác rất thành công về đề tài này. Truyện ngắn “Làng” là một truyện ngắn thành công của Kim Lân gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
Kim Lân vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc với cuộc sống và con người ở nông thôn Việt Nam nên các truyện gắn của ông thường gây ấn tượng độc đáo, rất giản dị, chân chất về đề tài này. Truyện ngắn Làng cũng vậy, truyện ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc. Câu truyện xoay quanh nhân vật ông Hai và tình yêu làng Chợ Dầu. Với những chuyển biết trong nhận thức và suy nghĩ, ông Hai đã trở thành một điển hình của người nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Như bao con người Việt Nam khác, ông Hai cũng có một quê hương yêu thương, gắn bó. Làng Chợ Dầu luôn là niềm tự hào và là kiêu hãnh của ông. Ông luôn khoe về làng mình, đức tính ấy như đã trở thành bản chất. Ông cũng như mọi người nông dân Việt Nam khác, có quan niệm rằng “Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, đối với họ, không có bất cứ đâu đẹp hơn nơi chôn rau cắt rốn của mình. Trước cách mạng, mỗi khi kể về làng, ông đều khoe về cái sinh phần của viên tổng đốc sừng sững ở cuối làng. Sau Cách mạng, làng ông đã trở thành làng kháng chiến, ông đã có nhận thức khác. Ông Hai không còn khoe về cái sinh phần ấy nữa mà ông lấy làm hãnh diện với sự cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê mình. Ông khoe làng có “những hố, những ụ, những giao thông hào”, “có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”… Kháng chiến bùng nổ, ông Hai bất đắc dĩ phải rời làng đi tản cư. Trong những ngày buộc phải rời xa làng tâm trí ông luôn nhớ về nơi ấy, về những anh em đồng chí của mình, ông muốn “cùng anh em đào đường, đáp ụ, xẻ hào,khuân đá…’’.
Ở nơi tản cư, ông luôn đến phòng thông tin để theo dõi và mong ngóng tin tức về làng nhằm nguôi ngoai nỗi nhớ. Trong lúc mong tin làng, những tin vui chiến thắng ở khắp nơi khiến ông vui sướng vô cùng, “ruột gan cứ múa cả lên”. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ người đàn bà đi tản cư, ông Hai vô cùng sửng sốt, “cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được” . Đến khi nghe kể rành rọt, không thể không tin vào điều xấu ấy, niềm tin và tình yêu bấy lâu nay của ông về làng như sụp đổ. Ông đã “gầm mặt xuống”, đánh trống lảng rồi bước đi như kẻ trốn nợ. Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người nhưng lại không tin họ theo giặc. Mấy hôm liền, ông không dám đi đâu vì xấu hổ, luôn bị ám ảnh cái tinh khủng khiếp ấy và hay hốt hoảng giật mình. Những ngày này mâu thuẫn nội tâm trong con người ông Hai diễn ra một cách quyết liệt và ngày càng dâng cao. Đã có lúc ông nghĩ đến việc “quay về làng” nhưng ông đã dứt khoát “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tuy quyết định như thế nhưng ông vẫn rất đau đớn xót xa. Tất cả những cử chỉ của ông Hai khẳng định tình yêu làng của ông đã hòa quyện vào cuộc kháng chiến của dân tộc và ông sẽ gắn bó cả cuộc đời với nó bằng suy nghĩ và hành động. Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông trút nỗi lòng vào lời nói với đứa con út ngây thơ: “Bố con mình theo kháng chiến, theo Cụ Hồ con nhỉ?” để giãi bày tâm sự, trút bỏ, an ủi lòng mình. Đồng thời, ông cũng truyền cả tình yêu nước sang cho con mình và khẳng định tình cảm của bố con ông với kháng chiến, với Cụ Hồ là trước sau như một.
Đau khổ là thế, lo âu là thế nhưng cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã được cải chính. Niềm vui trong ông Hai như vỡ òa. Ông chạy đi khoe ngay với bác Thứ rồi gặp bất cứ ai ông cũng khoe Tây đã đốt nhà mình như muốn chứng minh làng mình không theo giặc với tất cả niềm tin và tình cảm của ông. Đối với ông hai cũng như mọi người nông dân khác, con trâu, mảnh ruộng, gian nhà là vô cùng quý giá nhưng họ thà mất đi tất cả chứ không chịu mất nước và ý chí ý đã trở thành một truyền thống vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta. Cách mạng và sự nghiệp kháng chiến đã tác động mạnh mẽ, đem lại những nhận thức, những tình cảm mới lạ cho những người nông dân. Từ đó khiến họ nhiệt tình tham gia kháng chiến và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng, vào lãnh tụ. Ở nhân vật ông Hai, tình cảm đẹp đẽ có tính chất truyền thống của người nông dân Việt Nam là tình yêu làng quê đã được nâng lên thành tình yêu nước. Sự hòa quyện và gắn bó của tình yêu quê hương và tình yêu đất nước là nét mới mẻ trong nhận thức của người nông dân, của quần chúng cách mạng trong giai đoạn văn học.
Với kếu cấu đơn giản, xoay quanh nhân vật ông Hai với tình yêu làng sâu sắc, “Làng” đã để lại trong lòng người đọc nhiều ý vị sâu sắc. Làng Nhà văn Kim Lân đã xây dựng rất thành công nhân vật ông Hai với các phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Đồng thời nhà văn còn khôn khéo xây dựng tình huống thử thách làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng của nhân vật. Tác giả đã miêu tả đặc biệt tài tình nội tâm của nhân vật với những suy nghĩ phức tạp, giằng xé. Tác giả đẩy các chi tiết đến cao trào rồi giải quyết một cách nhẹ nhàng, thỏa đáng và có hậu, tạo hứng thú và bất ngờ cho người đọc, người nghe. Cách sử dụng từ ngữ địa phương mộc mạc, gần gũi với nông dân trong đối thoại, giao tiếp kết hợp với sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ khiến những trang viết của Kim Lân thật gần gũi nhưng không kém phần sâu sắc. Nhân vật ông Hai gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại nhiều tình cảm tốt đẹp, sự yêu mến, trân trọng và cảm phục trong lòng người đọc. Tình yêu làng của ông Hai mang tính chất truyền thống đã được nâng lên thành tình yêu nước nồng nàn như “ dòng suối đổ vào sông, dòng sông đổ vào dải trường giang Vônga, dòng sông Vônga đi ra biển..”. Qua nhân vật ông Hai như là nông dân với những phẩm chất tốt đẹp bước từ đời thực vào tác phẩm, có được những biểu hiện cụ thể, sinh động vè tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.
“Làng” đã trở thành một truyện ngắn đặc sắc, Kim Lân đã thành công trong việc thể hiện những chuyển biến mới mẻ trong nhận thức và tình cảm của người dân Việt Nam. Nhân vật ông Hai đã trở thành một hình tượng điển hình cho những người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác nhưng luôn cháy bỏng tình yêu quê hương, yêu đất nước. Họ đã góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng và là nhân tố trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Bản thân mỗi chúng ta cần phải học tập tấm gương của họ, ngày càng yêu thương quê hương, đất nước mình hơn.
Truyện ngắn Làng gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm – mẫu 4
Vốn là “ đứa con đẻ của đồng ruộng”, là người“một lòng đi về với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống”, Kim Lân là một trong những cây bút xuất sắc nhất trong nền Văn học hiện đại Việt Nam. Các tác phẩm của ông hầu hết viết về người nông dân và đời sống sinh hoạt hằng ngày ở nông thôn mà tiêu biểu hơn cả là truyện ngắn “Làng”. Tác phẩm đã gợi cho em những suy nghĩ sâu sắc về những chuyển biến mới trong tình cảm người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
Truyện ngắn “Làng” được sáng tác năm 1948 – thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, khi quân và dân ta còn vô cùng nghèo nàn, lạc hậu, khó khăn chồng chất khó khăn. Toàn bộ tác phẩm xoay quanh nhân vật trung tâm là ông Hai ở làng Chợ Dầu. Sinh ra và lớn lên ở làng chợ Dầu, trước hết ở ông có sự gắn bó sâu nặng và tình yêu tha thiết với làng quê của mình nhưng cùng với sự giác ngộ cách mạng, tình yêu ấy trong ông ngày càng mở rộng, hòa chung vào tình cảm lớn lao của thời đại là lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai đã được nhà văn đặt vào nhiều hoàn cảnh, tình huống khác nhau để rồi nổi bật lên một cách sâu sắc và đẹp đẽ. Toàn bộ tác phẩm không chỉ là bài ca yêu nước của con người Việt Nam những năm kháng chiến khói lửa mà còn là những phát hiện mới mẻ về vẻ đẹp của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp mà đại diện là hình tượng nhân vật ông Hai.
Vẻ đẹp mới mẻ đó chính là tình yêu làng, yêu quê hương, yêu đất nước, yêu kháng chiến của người nông dân. Trong tác phẩm, tình yêu lớn lao ấy được thể hiện qua các thời điểm khác nhau dựa theo diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai. Trước hết là tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi ở nơi tản cư. Khi chiến tranh bùng nổ, mọi người phải di cư đi nơi khác, ông hai vẫn nấn ná ở lại làng của mình, nhưng sau vì lí do riêng, cuối cùng ông cũng phải chuyển đi. Và khi ở nơi tản cư, ông Hai vẫn luôn nhớ về làng chợ Dầu của mình. Ông nhớ những ngày còn cùng làm việc với anh em ở làng, ông lại muốn về làng cùng anh em đào đường, đắp ụ, sẻ hào, khuân đá; ông băn khoăn không biết những công trình phục vụ kháng chiến ở làng (chòi gác, chòi bí mật) đã xong chưa. Nỗi nhớ làng tha thiết trong ông đã khiến tác giả bật lên thành tiếng “ Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!” Tuy ở nơi tản cư, không được trực tiếp tham gia kháng chiến nhưng ông luôn quan tâm, theo dõi mọi tin tức về tình hình kháng chiến của quân ta. Một trong những thói quen ưa thích của ông là đến phòng thông tin tuyên truyền nghe đọc báo để nắm tình hình kháng chiến. Khi nghe được những tin tức về chiến thắng của quân ta cũng như những thất bại của kẻ thù, ông vô cùng sung sướng “ Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”. Có thể thấy tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện thật giản dị, tự nhiên nhưng không kém phần sâu sắc, cảm động và rồi, một ngày nọ, như bao ngày khác, ông Hai đang trên đường ở phòng nghe tin trở về, ông chợt nghe được tin cái làng chợ Dầu mà ông vô cùng yêu quý và tự hào theo giặc. Ông Hai đã vô cùng đau đớn. Khi vừa nhận hung tin, “ cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi, tựa như đến không thở được nữa”. Chỉ bằng một câu văn ngắn, tác giả đã cụ thể hóa cái sững sờ, ngạc nhiên cao độ đến hốt hoảng, nghẹn giọng, lạc giọng, khó thở của ông Hai. Bởi từ trước đến nay, ông luôn yêu và tự hào về ngôi làng cách mạng của ông. Một loạt những biểu hiện khi ấy của ông hai: “cất tiếng hỏi lại”,” giọng lạc hẳn đi,… Ông hỏi lại vì chưa thể tin và cũng vì trong thâm tâm ông hi vọng là mình đã nghe nhầm.
Nhưng trước những chứng cứ cụ thể và sự khẳng định chắc chắn của những người tản cư khiến ông không thể không tin. Vậy nên, ông “đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to – Hà, nắng gớm, về nào!…” Đó là cách để ông đánh trống lảng, kiếm cớ ra về mà như chạy trốn cho thấy tâm trạng đau đớn, xấu hổ, tủi nhục. Trên đường về nhà, ông lão cứ cúi gằm mặt xuống mà đi, những câu nói mỉa mai, căm ghét của đám người tản cư về làng chợ Dầu vẫn cứ dõi theo ông khiến ông vô cùng xấu hổ, cảm thấy vô cùng nhục nhã, tổn thương. Vừa về đến nhà, ông “nằm vật ra giường”, nhìn lũ con, thấy thương con tuổi nhỏ mà đã mang tiếng trẻ con làng Việt gian khiến những giọt nước mắt xót xa của ông cứ trào ra. Những câu văn dưới hình thức độc thoại, độc thoại nội tâm đã diễn tả tâm trạng day dứt, giằng xé, nửa tin nửa ngờ về cái tin làng Dầu theo giặc ấy. Có những lúc, tâm trạng chồng chất dồn nén trong lòng, ông còn bùng lên thành cơn nóng dẫn vô lí đã đổ lên đầu người vợ tội nghiệp của ông. Cho đến tận mấy ngày sau,ông vẫn chẳng đi đâu, chỉ ru rú ở nhà để nghe ngóng. Phần vì xấu hổ quá đỗi, nhục nhã quá phần nên một đám đông xúm lại ông cũng để ý, năm bảy tiếng nói ông cũng chột dạ. Nhà văn Kim Lân đã diễn ta rất cụ thể nỗi đau, nỗi sợ hãi thường trực trong ông Hai. Đặc biệt, khi mụ chủ nhà nói đến việc làng chợ Dầu của ông theo giặc và có ý đánh tiếng đuổi khéo vợ chồng ông đi, ông đã chớm nghĩ đến cuộc quay về làng nhưng ngay lập tức gạt bỏ cái ý định đó vì “về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Với ông Hai lúc này, “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Từ một người yêu làng, gắn bó với cái làng, tự hào về cái làng của mình như ông Hai mà cuối cùng cũng đưa ra cái quyết định như thế ấy, rõ ràng, tình yêu nước của ông đã cao lớn hơn, bao trùm lên tình yêu làng quê trong ông. Và trong những ngày ở nhà, ông chẳng biết làm gì, thỉnh thoảng lại trò chuyện với đứa con út. Những câu hỏi ông hỏi con về làng chợ Dầu cũng là mong muốn con luôn khắc ghi về cội nguồn, gốc rễ, về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đằng sau những câu hỏi tưởng như vu vơ ấy còn là nỗi nhớ tha thiết của ông với cái làng. Nhưng ông cũng thể hiện tấm lòng chung thủy, một lòng tin tưởng, ủng hộ, đi theo kháng chiến, đi theo cách mạng, theo cụ Hồ. Tấm lòng ấy của ông “ chết thì chết bao giờ có đơn sai”. Có thể nói, càng khơi sâu vào nỗi đau đớn, xót xa, tủi hổ, giằng xé trong lòng ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo giặc, tác giả càng làm sáng lên tình yêu làng, yêu nước thiết tha, sâu nặng của ông Hai.
Khi nghe tin làng Dầu theo giặc ông già đã đau khổ đến tột cùng là thế, xong khi nghe tin cải chính, ông cũng tỏ ra vô cùng sung sướng như thể trút được một gánh nặng bấy lâu, như được hồi sinh sau những tháng ngày đầy đau đớn. “ Gương mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, “ cái mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy”. Rồi ông mua quà cho các con ông, ông “lật đật” đi sang gian bác Thứ mà khoe về cái tin cải chính. Chưa kịp cho bác ta hiểu, ông lại “lật đật” bỏ đi nơi khác, cứ mua tay lên mà khoe như vậy. Có thể thấy, từ nét mặt, cử chỉ, hành động, lời nói của ông Hai đều thể hiện sự vui mừng cuống quýt. Ông vui và hãnh diện vì làng chợ Dầu của ông vẫn trụ vững và kháng chiến giặc. Ông vui đến mức không hề thấy buồn hay tiếc vì ngôi nhà riêng của mình bị thiêu đốt. Bởi với ông, đó là một minh chứng rõ nhất về làng chợ Dầu không theo giặc và dường như ông còn cảm thấy mình đóng góp một phần vào chiến thắng của làng.
Với ông Hai, tình yêu làng, yêu nước mới là thứ thiêng liêng, quý giá hơn cả. Danh dự của làng là danh dự của ông. Ông cũng như làng, làng cũng là ông, có thể hi sinh nhưng không thể làm phản. Đó cũng là biểu hiện cao nhất của tình yêu làng, yêu nước, của tinh thần kháng chiến. Để khắc họa lên hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “Làng”, tác giả đã thể hiện qua cách kể chuyện tự nhiên và các yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Truyện ngắn được xây dựng theo cốt truyện tâm lí. Trong đó, tác giả đã sáng tạo ra những tình huống truyện gay cấn, kịch tính, bất ngờ: tình huống truyện khi ông Hai nghe tin làng chợ Dầu theo giặc và tình huống khi ông Hai nghe tin cải chính. Nếu tình huống truyện thứ nhất tạo thắt nút cho câu chuyện thì tình huống thứ hai mở nút, khẳng định ông Hai và làng chợ Dầu một lòng đi theo kháng chiến, đi theo cách mạng.
Như vậy, việc tạo dựng hai tình huống truyện trên đã tạo ra sự kịch tính, hấp dẫn, đồng thời làm nổi bật chủ đề của tác phẩm, ca ngợi tình yêu làng quê hòa quyện với tình yêu đất nước, tình yêu kháng chiến của nhân vật ông Hai hay cũng chính là người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Ngoài ra, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên mà tinh tế, sâu sắc. Tác giả đã miêu tả rất cụ thể diễn biến nội tâm nhân vật trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, qua những phương diện khác nhau ( ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành động). Đặc biệt, nhà văn đã sử dụng thành công các hình thức nghệ thuật đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm, tạo sự sinh động cho toàn bộ câu chuyện đồng thời có điều kiện để đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật, làm nổi bật những ám ảnh, day dứt, giằng xé trong tâm trạng con người. Từ đó chứng tỏ Kim Lân là am hiểu về người nông dân và thế giới tinh thần của họ. Ngôn ngữ kể chuyện giản dị, mộc mạc, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày, tạo nên sự thân quen đối với người đọc. Ngôn ngữ của nhân vật ông Hai giàu tính khẩu ngữ, lại mang cá tính của nhân vật, gây ấn tượng cho người đọc. Cách trần thuật linh hoạt, tự nhiên, có nhiều chi tiết trong đời sống sinh hoạt hằng ngày xen vào mạch tâm trạng, tạo nên sự sống động và hấp dẫn cho câu chuyện. Việc tạo dựng hai mảng tâm lí đối lập trước và sau khi nghe hung tin của ông Hai trở thành hai cánh cửa nghệ thuật để mở ra tinh thần yêu nước sâu đậm của nhân vật, là cánh cửa đưa người đọc đến với nội dung chủ đề của tác phẩm.
Tóm lại, bằng ngòi bút tài ba và sự hiểu biết am tường về người nông dân của mình, Kim Lân đã tạo nên một thiên truyện ngắn về tình yêu quê hương, đất nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp với những nét đẹp mới mẻ. Có phải vì thế mà khi đọc tác phẩm, có ý kiến cho rằng: “ Làng không chỉ thể hiện sinh động những nét chân chất quen thuộc vốn có mà còn phát hiện những nét mới mẻ của người nông dân thời kì đầu kháng chiến chống Pháp qua lối kể chuyện tự nhiên và những yếu tố nghệ thuật đặc sắc”.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!