Top 60 Dàn ý Cảnh ngày hè (hay nhất) – VietJack.com
Tổng hợp trên 60 Dàn ý Cảnh ngày hè hay nhất với các bài phân tích, cảm nhận mẫu giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
Top 60 Dàn ý Cảnh ngày hè (hay nhất)
Bài giảng: Cảnh ngày hè – Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên VietJack)
Dàn ý Cảnh ngày hè – mẫu 1
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi: Là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới với sự nghiệp văn học đồ sộ.
– Giới thiệu về tập thơ Quốc âm thi tập và bài thơ cảnh ngày hè: Quốc âm thi tập là tập thơ đặt nền móng cho sự mở đường của thơ chữ Nôm, cảnh ngày hè là một trong những bài thơ hay nhất của tập thơ.
II. Thân bài
1. Sáu câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống ngày hè
– Hoàn cảnh sống của Nguyễn Trãi trong những ngày về ở ẩn:
+ “Rồi”: Là một từ cổ có nghĩa là rảnh rỗi, nhàn hạ
+ “Ngày trường”: Ngày dài, chỉ khoảnh thời gian rảnh rỗi.
+ Hóng mát: Hoạt động an nhàn, tĩnh tại, thư thái
→ Tâm thế an nhàn, thảnh thơi của tác giả. Nguyễn Trãi một đời bận rộn, tận tâm vì đất nước, đây là những giây phút hiếm hoi của cuộc đời.
– Bức tranh thiên nhiên rực rỡ, sống động.
+ Xuất hiện trong ba câu thơ là những sự vật quen thuộc của của mùa hè: lá hòe , thạch lựu, hoa sen.
→ Sự vật gần gũi, giản dị
+ Cách miêu tả sự vật của tác giả: Màu sắc – màu xanh của hoa hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, trạng thái – đùn đùn, rợp, phun, tiễn, mùi hương: mùi sen cuối hạ.
→ Cách miêu tả tinh tế, sinh động khiến các sự vật hiện lên vừa có màu sắc vừa có trạng thái, vừa có mùi hương
⇒ Các sự vật vốn gần gũi, giản dị nhưng qua cách phối hợp đường nét, màu sắc cùng các động từ mạnh đã vẽ lên một bức tranh căng tràn sự sống
⇒ Thể hiện tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên của của Nguyễn Trãi.
– Vẻ đẹp bức tranh cuộc sống con người
+ Nguyễn Trãi dùng nhiều từ Hán Việt như ngư phủ, cầm ve, tịch dương kết hợp nhuần nhuyễn với những từ thuần Việt tạo nên vẻ đẹp vừa mộc mạc, bình dị, vừa trang trọng tao nhã.
+ Cuộc sống được cảm nhận bằng âm thanh: Âm thanh từ làng chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về
+ Nhà thơ sử dụng hai từ láy tượng thanh “lao xao” – âm thanh của những phiên chợ cá, “dắng dỏi” – diễn tả âm thanh của tiếng ve, kết hợp với nghệ thuật đảo cấu trúc câu nhằm nhấn mạnh những âm thanh bao trùm làng quê.
→ Cuộc sống sôi động, ồn ão, tràn đầy sức sống và âm thanh.
⇒ Cả thiên nhiên và con người đều hiện lên tràn đầy sức sống
⇒ Tâm hồn lạc quan, yêu đời, tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên, tha thiết với cuộc sống quê nhà của nhà thơ Nguyễn Trãi.
2. Hai câu cuối: Tâm sự và ước nguyện của nhà thơ
– “Dẽ” là từ cổ nghĩa là lẽ, lẽ ra
– “Ngu cầm” là cây đàn của vua Nghiêu vua Thuấn. Đây là điển cố quen thuộc của Trung Hoa kể về thời đại Nghiêu Thuấn – những ông vua nhân từ đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hằng ngày vua Nghiêu Thuấn thường đem đàn ra gảy khúc nam phong ngợi ca cảnh thái bình trên xứ sở này
→ Thể hiện ước muốn có được cây đàn để ca ngợi khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và cuộc sống vui tươi trên quê hương ông.
→ Câu thơ thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc của tác giả khi được sống hòa hợp cùng thôn quê.
– Câu thơ cuối cùng thể hiện rõ ràng, cụ thể ước mơ được thấy cảnh thanh bình, ấm no trên đất nước.
→ Nguyễn Trãi dù sống trong cảnh thanh nhàn nhưng vẫn nặng lòng với dân với nước. Ông ước mơ về cuộc sống no đủ, ấm áp sung túc không chỉ trên quê hương ông mà còn trải khắp đất nước.
3. Nghệ thuật
– Giọng điệu trữ tình, sâu lắng, bút pháp tả sinh động
– Thể thơ sáng tạo thất ngôn xen lục ngôn
– Ngôn ngữ thơ phong phú, đa dạng vừa có lớp từ Hán Việt vừa có lớp từ thuần Việt tạo nên vẻ đẹp vừa trang trọng vừa bình dị
– Sử dụng các điển tích, điển cố
III. Kết bài
– Khái quát nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
– Mở rộng: Liên hệ với những bài thơ cùng chủ đề như “Quy hứng” của Nguyễn Trung Ngạn, “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Dàn ý Cảnh ngày hè – mẫu 2
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Tác giả Nguyễn Trãi là một nhà thơ, nhà văn tài năng kiệt xuất của dân tộc, ông đã có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà.
– Bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi là bài số 43 trong trùm thơ Bảo kính cảnh giới của Quốc âm thi tập, là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và tấm lòng yêu nước thương dân của tác giả.
II. Thân bài
– Hoàn cảnh sống của Nguyễn Trãi trong những ngày về ở ẩn:
+ “Rồi”: Là một từ cổ có nghĩa là rảnh rỗi, nhàn hạ
+ “Ngày trường”: Ngày dài, chỉ khoảnh thời gian rảnh rỗi.
+ Hóng mát: Hoạt động an nhàn, tĩnh tại, thư thái
→ Tâm thế an nhàn, thảnh thơi của tác giả. Nguyễn Trãi một đời bận rộn, tận tâm vì đất nước, đây là những giây phút hiếm hoi của cuộc đời.
– Bức tranh cảnh ngày hè nổi lên với bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ:
+ Cây hòe có sức sống mãnh liệt giờ tán là xanh che phủ cả khoảng không gian
+ Sắc đỏ của cây thạch lựu tô đậm thêm cho khung cảnh ngày hè
+ Hương hoa sen tỏa ngát bay theo làn gió
→ Cảnh vật ngày hè tươi tắn, tràn đầy sức sống, tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên của của Nguyễn Trãi
– Vẻ đẹp bức tranh cuộc sống con người:
+ Nguyễn Trãi dùng nhiều từ Hán Việt như ngư phủ, cầm ve, tịch dương kết hợp nhuần nhuyễn với những từ thuần Việt tạo nên vẻ đẹp vừa mộc mạc, bình dị, vừa trang trọng tao nhã.
+ Cuộc sống được cảm nhận bằng âm thanh: Âm thanh từ làng chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về
+ Từ láy: đùn đùn, lao xao, dắng dỏi… → Cảnh ngày hè xôn xao, náo nức, không khí rất nhộn nhịp
+ Động từ: rợp, đùn, tiễn đưa khiến cho người đọc thấy được cảm giác sức sống trỗi dậy của cảnh vật mùa hè
+ Nhà thơ sử dụng hai từ láy tượng thanh “lao xao” – âm thanh của những phiên chợ cá, “dắng dỏi” – diễn tả âm thanh của tiếng ve, kết hợp với nghệ thuật đảo cấu trúc câu nhằm nhấn mạnh những âm thanh bao trùm làng quê.
→ Cuộc sống sôi động, ồn ão, tràn đầy sức sống và âm thanh.
→ Cả thiên nhiên và con người đều hiện lên tràn đầy sức sống, tâm hồn lạc quan, yêu đời, tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên, tha thiết với cuộc sống quê nhà của nhà thơ Nguyễn Trãi.
– Nhà thơ đã cảm nhận cái tinh tế, thú vị của ngày hè qua thị giác và thính giác:
+ Nhà thơ nhìn những tán lá xanh cây hòe, màu đỏ rực của thạch lựu, tiếng ve kêu ran cả khoảng không gian và hình ảnh người dân làng chài mỗi sớm thức dậy và bóng người kéo lưới buổi chiều ta.
+ Ngày hè cảm nhận qua thính giác khi nhà thơ thấy được hương sen thoảng theo gió
→ Tâm hồn nhà thơ Nguyễn Trãi được hòa vào thiên nhiên, nói lên được tác giả là người rất yêu đời, yêu cuộc sống.
– Tình yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi:
+ “Dẽ” là từ cổ nghĩa là lẽ, lẽ ra
+ “Ngu cầm” là cây đàn của vua Nghiêu vua Thuấn. Đây là điển cố quen thuộc của Trung Hoa kể về thời đại Nghiêu Thuấn – những ông vua nhân từ đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hằng ngày vua Nghiêu Thuấn thường đem đàn ra gảy khúc nam phong ngợi ca cảnh thái bình trên xứ sở này
→ Thể hiện ước muốn có được cây đàn để ca ngợi khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và cuộc sống vui tươi trên quê hương ông, niềm vui sướng, hạnh phúc của tác giả khi được sống hòa hợp cùng thôn quê.
+ Câu thơ cuối cùng thể hiện rõ ràng, cụ thể ước mơ được thấy cảnh thanh bình, ấm no trên đất nước.
→ Nguyễn Trãi dù sống trong cảnh thanh nhàn nhưng vẫn nặng lòng với dân với nước. Ông ước mơ về cuộc sống no đủ, ấm áp sung túc không chỉ trên quê hương ông mà còn trải khắp đất nước.
– Nghệ thuật:
+ Giọng điệu trữ tình, sâu lắng, bút pháp tả sinh động
+ Thể thơ sáng tạo thất ngôn xen lục ngôn
+ Ngôn ngữ thơ phong phú, đa dạng vừa có lớp từ Hán Việt vừa có lớp từ thuần Việt tạo nên vẻ đẹp vừa trang trọng vừa bình dị
+ Sử dụng các điển tích, điển cố
III. Kết bài
– Nhấn mạnh lại tình yêu thiên nhiên của tác giả đồng ca ngợi đức tính tốt đẹp của bậc thi nhân dù xin cáo quan về ở ẩn nhưng vẫn một lòng lo cho sự nghiệp chung đất nước.
Dàn ý Cảnh ngày hè – mẫu 3
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi và bài thơ Cảnh ngày hè: Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc cũng là tác giả xuất sắc của nhiều loại hình văn học cả chữ Hán và chữ Nôm. Cảnh ngày hè là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của mảng thơ viết về thiên nhiên của ông.
– Giới thiệu khái quát về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ: Là hình tượng trung tâm của bài, đó là một bức tranh sinh động, tràn trề sức sống.
II. Thân bài
1. Tâm thế ngắm cảnh của thi nhân
– Nhịp thơ 1-2-3, ngắt nhịp tự do, cách kể tự nhiên, thoải mái như lời nói hằng ngày.
– “Rồi”: rảnh rỗi, nhàn nhã
– “Hóng mát thuở ngày trường”: Hoạt động thư thái, nhàn tản, tao nhã trong ngày dài
– Tâm thế an nhàn, thảnh thơi, thư thái. Với tâm thế ấy, bức tranh thiên nhiên hiện lên hòa hợp với tâm hồn của con người
2. Bức tranh cảnh vật.
– Những sự vật quen thuộc của mùa hè: hòe, thạch lựu, hoa sen
– Cảnh vật gần gũi, bình dị, thân thuộc của mùa hè làng quê
– Màu sắc: lục, đỏ, hồng – Gam màu nóng, nổi bật, rực rỡ
– Phun – Sự sinh sôi đẩy mạnh ra bên ngoài
– Đùn đùn – Sức sống cuộn trào, ngồn ngộn
– Tiễn – sự lưu luyến trước sự đổi thay của cảnh vật
– Mùi hương: Hương thơm của hoa sen cuối mùa hạ, mùi hương đậm đà.
– Bức tranh mùa hè cuối hạ nhưng không gợi cảm giác héo úa, tàn tạ.
– Đó là bức tranh cảnh vật mùa hè rực rỡ, căng tràn nhựa sống, thấy được sự cựa quậy sinh sôi trong lòng cảnh vật, sức sống căng tràn cuộn trào từ bên trong.
3. Bức tranh cuộc sống
– Các hình ảnh: ngư phủ, cầm ve, lầu tịch dương
– Là hình ảnh quen thuộc, mộc mạc bình dị của làng quê.
– Âm thanh cuộc sống:
– Lao xao chợ cá: Âm thanh của phiên chợ cá náo nhiệt, sôi động, không khí náo nức, vui tươi của cuộc sống người dân làng chài
– Dắng dỏi cầm ve: Âm thanh quen thuộc của mùa hè, âm thanh náo nhiệt, sôi động, rạo rực.
– Cách sử dụng từ ngữ, cú pháp
– Các từ láy tượng thanh “lao xao”, “dắng dỏi”: Mô tả chính xác, độc đáo âm thanh
– Phép đảo cấu trúc câu: Đặt vị ngữ lên trước, để những từ ngữ tượng thanh lên đầu câu nhằm nhấn mạnh âm thanh.
– Bức tranh cuộc sống làng quê tấp nập, sôi động, giàu sức sống.
– Nguyễn Trãi yêu cuộc sống và quan tâm tới nhưng người dân quê nên mới có thể phát hiện được những âm thanh, hình ảnh ấy
3.Tổng kết:
– Nội dung:
+ Bức tranh thiên nhiên mùa hè với cảnh vật phong phú, đa dạng, màu sắc, rộn rã âm thanh, căng tràn sức sống, bức tranh cuộc sống sung túc, nhộn nhịp
+ Tâm hồn yêu thiên nhiên, tinh tế, nhạy cảm, tha thiết với cuộc sống của tác giả
– Nghệ thuật:
+ Kết hợp giữa từ Hán Việt và thuần Việt là cho bức tranh thiên nhiên vừa giản dị, gần gũi, vừa trang trọng, cổ kính.
+ Sử dụng các từ láy, từ tượng thanh, phép đảo cấu trúc câu
+ Giọng điệu trữ tình sâu lắng, bút pháp tả sinh động.
III. Kết bài
– Khái quát lại vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè
– Thể hiện suy nghĩ của bản thân: Đây là một bức tranh đẹp, tinh tế, qua bức tranh đã thể hiện tâm hồn tác giả. Xuân Diệu từng phát biểu “Lòng yêu thiên nhiên tạo vật là một kích thước để đo một tâm hồn.
Dàn ý Cảnh ngày hè – mẫu 4
1.Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm.
– Sơ lược về bức tranh thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.
2.Thân bài
* Bức tranh thiên nhiên:
– Cảnh ngày hè:
+ Màu sắc: xanh, đỏ, hồng.
+ Hương thơm của hoa sen.
+ Động từ mạnh: “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn” góp phần thể hiện trạng thái cảnh vật.
+ Âm thanh: cuộc sống, con người, tiếng ve.
+ Đảo ngữ.
+ Bức tranh thiên nhiên sống động, có sự hài hòa về màu sắc, đường nét, âm thanh, con người và cảnh vật.
* Vẻ đẹp tâm hồn:
+ Tâm trạng thư thái, thanh thản trước thiên nhiên ngày hè tươi đẹp.
+ Tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống.
+ Tấm lòng ưu ái với dân với nước:
+ Điển tích ” Ngu cầm”.
+ “Dẽ có”: Ước mong, khát vọng cao đẹp về một cuộc sống thái bình, cơm no áo ấm cho muôn dân.
+ Vẻ đẹp tâm hồn: Yêu nước thương dân.
3.Kết bài: Khẳng định lại bức tranh thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi. Suy nghĩ và tình cảm của em về bài thơ.
Dàn ý Cảnh ngày hè – mẫu 5
I. Mở bài
– Nguyễn Trãi là một bậc anh hùng, một nhà văn hóa lớn, ông đã để lại cho lớp lớp thế hệ sau một sự nghiệp văn học vĩ đại
– Bài thơ Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới – bài 43) phản ánh vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước, con người của nhà thơ. Và qua đó, chúng ta sẽ có những cảm nhận về tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc của tâm hồn Ức Trai
II. Thân bài
1. Bức tranh cảnh ngày hè
– Bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, cảnh vật tươi tắn, rực rỡ
+ Hình ảnh thơ: hoa hòe, thạch lựu, hồng liên
+ Màu sắc: màu xanh của cây hòe, màu đỏ của cây thạch lựu, màu hồng của hồng liên – những màu sắc tươi tắn, rực rỡ, căng tràn nhựa sống.
+ Sử dụng các động từ mạnh: đùn đùn, giương, phun, tiễn. Cảnh vật được miêu tả với những động từ mạnh thể hiện một sức sống mãnh liệt như có một cái gì đó thôi thúc bên trong, sức sống như ứa căng, tràn đầy.
+ Tác giả sử dụng những hình ảnh thơ bình dị, gần gũi, quen thuộc, độc đáo và có sự phá cách, khác hẳn với những hình ảnh thơ mang tính ước lệ, tượng trưng vốn thường được sử dụng trong Đường thi
– Bức tranh cảnh ngày hè sôi động, náo nhiệt gắn với cuộc sống của con người
+ Âm thanh sôi động, dân dã gắn với cuộc sống đời thường: âm thanh của tiếng ve, tiếng lao xao của chợ cá
+ Hình ảnh thơ gần gũi: chợ cá làng ngư phủ, lầu tịch dương
+ Sử dụng từ láy có giá trị tượng thanh (lao xao) cùng với nghệ thuật đảo ngữ trong câu 5 và câu 6 đã góp phần tạo nên nét nhộn nhịp của bức tranh hè và cuộc sống sung túc, ấm no, đủ đầy của con người.
– Bức tranh cảnh ngày hè có sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc và âm thanh, giữa cảnh vật và con người:
+ Cảnh vật ngày hè ngập tràn màu sắc, sự kết hợp màu độc đáo giữa màu đỏ của hoa lựu trước hiên với cây hòe xanh rợp bóng cùng với âm thanh của tiếng ve, của chợ cá khiến không gian tràn đầy sức sống.
+ Trong không gian cảnh hè ấy, hình ảnh con người hiện lên với sự sung túc, hạnh phúc trong lao động.
– Qua cảm nhận của tác giả, bức tranh cảnh ngày hè hiện lên thật sống động, có sự hài hòa giữa đường nét, màu sắc, âm thanh, cảnh vật và con người. Cảnh vật được nhìn từ gần đến xa, từ cao xuống thấp. Đồng thời, bức tranh ấy hiện lên thật nhộn nhịp, sôi động và luôn căng tràn sức sống, tất cả như đang muốn trào dâng ra bên ngoài.
2. Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ
– Tình yêu thiên nhiên say đắm: Nguyễn Trãi đã cảm nhận và miêu tả bức tranh thiên nhiên rất tinh tế bằng nhiều giác quan:
+ Thị giác: cảm nhận được màu sắc của hòe, của thạch lựu
+ Khứu giác: cảm nhận được mùi hương của hoa sen
+ Thính giác: nghe được tiếng ve, tiếng lao xao của chợ cá
– Mong ước của tác giả và tình yêu nước, thương dân sâu sắc:
+ Ung dung, tự tại, không muốn vướng bận đến chuyện quan trường nhưng nhà thơ luôn nghĩ về dân, về nước. Tác giả mong có cây đàn của vua Ngu Thuấn để hát ca mong muốn mang lại cuộc sống ấm no, sung túc, yên vui cho nhân dân muôn nơi.
+ Câu thơ 6 tiếng, ngắn gọn kết thúc bài thơ như làm dồn nén lại cảm xúc.
+ Nghệ thuật: sử dụng điển cố điển tích
+ Đằng sau vẻ đẹp của bức tranh cảnh ngày hè đó chính là vẻ đẹp của tâm hồn Ức Trai. Đó là tình yêu thiên nhiên, đất nước, nhân dân và mong ước, khát vọng về cuộc sống ấm no, thái bình, hạnh phúc cho muôn dân.
III. Kết bài
– Thông qua bức tranh cảnh ngày hè được tác giả miêu tả độc đáo, tỉ mỉ đã cho chúng ta thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước, đặc biệt là tấm lòng ái nước, thương dân của ông.
– Đồng thời, bài thơ còn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, độc đáo và cách kết thúc bài thơ với câu thơ lục ngôn tạo nên sự dồn nén cảm xúc cho toàn bài.
Dàn ý Cảnh ngày hè – mẫu 6
I. Mở bài: Giới thiệu tác phẩm Cảnh ngày hè.
Ví dụ: Việt Nam ta có rất nhiều nhà văn nhà thơ và họ nỗi tiếng với các tác phẩm, các đứa con tinh thần của mình. Trong những nhà thơ có một nhà thơ rất nỗi tiếng từ rất xa xưa đó là Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi từng là một vị qua triều đình nhưng vì chán ngán cuộc sống phù du, lừa lọc ông đã về ở ẩn. Nguyễn Trãi có những tác phẩm thơ rất nổi tiếng, một trong những tác phẩm ấy là Cảnh ngày hè. Bài thơ miêu tả cảnh ngày hè hết sức đặc sắc và nổi bật. Chúng ta cùng đi tìm hiểu bài thơ.
II. Thân bài:
1. Bức tranh thiên nhiên và con người vào ngày hè
– Tâm thế của con người rất yêu thiên nhiên, sống với thiên nhiên và muốn hòa mình vào thiên nhiên
– Tâm thế của con người rất an nhàn
– Bức tranh thiên nhiên mùa hè rất rực rỡ
– Cảnh thiên thiên mùa hè rực rỡ, tràn đầy sức sống
– Đời sống của người rất thanh bình và êm ấm
2.Niềm khát khao cao đẹp của tác giả
– Tác giả đắm chìm trong vẻ đẹp của thiên nhiên ngày hè
– Tác giả khao khát muốn đem tài trí của mình để cống hiến cho đất nước, cho dân tộc
– Khao khát lớn lao của tác giả thể hiện rất sâu sắc và chân thật
III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Cảnh ngày hè.
Ví dụ: Bài thơ Cảnh ngày hè thể hiện một bức tranh thiên nhiên ngày hè hết sức đẹp đẽ và rực rỡ. bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện sự khao khát cống hiến sức mình tài trí của mình cho đất nước, cho dân tộc.
Dàn ý Cảnh ngày hè – mẫu 7
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi và bài thơ Cảnh ngày hè: Nguyễn Trãi là người văn võ toàn tài, có tâm trong sáng. Cảnh ngày hè là bài thơ số 43 trong chùm “bảo kính cảnh giới” của Quốc âm thi tập.
– Khái quát vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài thơ: Yêu thiên nhiên tha thiết, gắn bó với cuộc sống của người dân quê, yêu nước thương dân luôn suy tư về hạnh phúc của nhân dân.
II. Thân bài
- Nguyễn Trãi – một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết
– Bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè được Nguyễn Trãi vẽ lên rất sinh động:
+ Cảnh vật gần gũi, quen thuộc của mùa hè: Lá hòe, hoa thạch lựu, hoa sen.
+ Cảnh vật rực rỡ, nổi bật, sinh động: Thông qua việc dùng những gam màu nóng để miêu tả cảnh vật lục, đỏ, hồng.
+ Cảnh vật căng tràn sức sống, sự sinh sôi cuộn trào toát ra từ trong lòng cảnh vật: Sử dụng các động từ mạnh “phun”, đùn đùn” để diễn tả những trạng thái, sức sống tràn trề của cảnh vật.
+ Cảnh vật tinh tế, tao nhã với hương thơm: Mùi hương nồng nàn của hoa sen cuối mùa.
+ Bức tranh thiên nhiên cuối mùa hạ nhưng không tàn úa, héo nát mà ngược lại vô cùng rực rỡ, sinh động, giàu sức sống.
– Tâm hồn Nguyễn Trãi:
+ Phải vô cùng yêu và say mê cảnh sắc thiên nhiên nên Nguyễn Trãi mới có những phát hiện tinh tế, tuyệt vời đến thế.
+ Nguyễn Trãi có tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, nhạy cảm.
- Nguyễn Trãi – một tâm hồn luôn tha thiết với cuộc sống làng quê
– Bức tranh cuộc sống sôi động, phong phú:
+ Hình ảnh cuộc sống quen thuộc: chợ cá, làng ngư phủ, lầu tịch dương.
+ Âm thanh cuộc sống: Tiếng lao xao của chợ cá, tiếng ve kêu dắng dỏi. Đó là những âm thanh của một cuộc sống nhộn nhịp, vui tươi, sôi nổi, tấp nập.
+ Cách sử dụng từ láy tượng thanh “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với phép đảo trật tự cú pháp đã nhấn mạnh âm thanh sôi động của cuộc sống.
– Tâm hồn Nguyễn Trãi:
+ Nguyễn Trãi yêu cảnh sắc của làng quê, yêu cuộc sống nơi thôn quê.
+ Ông quan tâm đến cuộc sống của người dân quê lam lũ thì mới có thể để tâm, lắng nghe được những âm thanh đó.
- Nguyễn Trãi – một tâm hồn nặng lòng với dân với nước
– Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi thể hiện triết lí sống “nhàn”:
+ Rồi: rỗi rãi, thảnh thơi.
+ “Hóng mát thuở ngày trường”: hoạt động thư thái, tự do tự tại.
+ Tâm hồn thảnh thơ, nhàn tản, vô lo vô nghĩ.
– Kết thúc bài thơ, Nguyễn Trãi thể hiện tâm sự của mình:
+ Điển tích điển cố “Ngu cầm”: Gợi về triều đại vua Nghiêu Thuấn – thời kì nhân dân được hưởng ấm no, thái bình. Niềm vui sướng, hạnh phúc của Nguyễn Trãi khi được sống ở quê hương với những người dân thôn dã. Thể hiện ước muốn có được cuộc sống no đủ, hạnh phúc trên quê hương ông. Đó là khát khao của một người con luôn suy tư, trăn trở, một lòng hướng về quê hương.
+ Ước mơ của Nguyễn Trãi: “Dân giàu đủ khắp đòi phương”: Không chỉ khát khao về cuộc sống hạnh phúc, no đủ trên quê hương ông, Nguyễn Trãi còn mong muốn cuộc sống ấy có ở khắp nơi trên cả nước. Đó là tấm lòng vì nước thương dân, lo nghĩ cho vận mệnh dân tộc.
+ Dù ở những phút thanh nhàn hiếm có của cuộc đời nhưng Nguyễn Trãi vẫn nặng lòng với dân với nước, nhàn thân chứ không nhàn tâm.
- Nghệ thuật
– Sử dụng lớp từ Hán Việt kết hợp với thuần Việt.
– Các biện pháp nghệ thuật: sử dụng từ láy, liệt kê, phép đảo trật tự cú pháp.
– Sử dụng điển tích điển cố.
– Cách tả tự nhiên, kết hợp giữa gợi và chi tiết.
III. Kết bài
– Khái quát những vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ.
– Liên hệ: So sánh với những thi nhân cùng đồng điệu tâm hồn với Nguyễn Trãi tiêu biểu nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ “Nhàn”.
Dàn ý Cảnh ngày hè – mẫu 8
– Nguyễn Trãi là một nhà thơ lớn của Việt Nam thời kỳ thơ ca trung đại. Ông là một trong những nhà thơ đi đầu trong phong trào thơ Nôm đường luật.
– Quốc âm thi tập được coi la tập thơ nôm cổ nhất còn lại cho đến ngày nay. Cảnh ngày hè là một bài thơ đặc sắc của nhà thơ Nguyễn Trãi trong tâp thơ Quốc âm thi tập.
– Bài thơ đã vẽ nên một bức tranh ngày hè tự nhiên, bình dì, qua đó cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước và niềm mong ước cuộc sống bình yên, no đủ cho muôn dân.
II. Thân bài:
a. Bức tranh thiên nhiên mùa hè với màu sắc tươi vui, rộn rã, đầy sức sống:
“Rồi hóng mát thuở ngày trườngHòe lục đùn đùn tán rợp giươngThạch lựu hiên còn phun thức đỏHồng liên trì đã tiễn mùi hương”
– Ngay trong câu thơ mở đầu nhà thơ đã nói lên những ngày dài đằng đẵng nhàn rỗi của nhà thơ từ những ngày rời quan về ở ẩn. Và cũng từ những ngày nhàn rỗi này, nhà thơ mở rộng tâm hồn, hòa mình vào thiên nhiên rực rỡ.
– Thơ xưa thường đưa hình ảnh “tùng – cúc – trúc – mai” vào trang thơ. Nhưng nhà thơ Nguyễn Trãi lại đưa những thi liệu mới là những loài cây dân dã như “hòe”, “thạch lựu” vào thơ của mình.
– Cảnh vật mùa hè lần lượt hiện lên sống động với màu “lục” của tán “hòe” đang xòe tán rộng, vươn lên tỏa bóng mát.
– Hè đến còn mang theo màu đỏ rực của “thạch lựu” và sắc hồng của những bông hoa sen trong ao “hồng liên trì”.
– Ở đây, nhà thơ đã rất thành công khi sử dụng các động từ mạnh “đùn đùn”, “phun” thể hiện một sức sống rất mãnh liệt từ bên trong cây hòe, cây lựu. Tất cả sức sống mãnh liệt ấy dường như đang muốn phun trào, muốn trỗi dậy vươn lên.
– Không chỉ màu sắc rực rỡ mà bức tranh mùa hè còn mang đến những mùi hương thơm ngát đặc trưng từ những bông sen, một hình ảnh ao sen quen thuộc trong đời sống cũng như trong thơ ca Việt Nam.
b. Những âm thanh trong cuộc sống của con người:
“Lao xao chợ cá làng Ngư phủDắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
– Nhà thơ lắng nghe những âm thanh bình dị của đời thường từ xa vọng lại. Đó là tiếng “lao xao” của “chợ cá làng Ngư phủ”. Âm thanh bình dị ấy cho thấy con người vẫn đang bận rộn với cuộc sống thường ngày nơi chợ làng.
– Tiếp tục lắng nghe, Nguyễn Trãi còn cảm nhận được tiếng ve “dắng dỏi” bên “lầu tịch dương”. Không chỉ có con người, mà cả những chú ve cũng đang tất bậ trong những ngày hè, góp vào cảnh vật không gian ấy một tiếng ve vui tươi, đầy sức sống.
– Hai từ láy “lao xao” “dắng dỏi” được đảo lên đầu câu thơ càng nhấn mạnh được âm thanh tươi vui, bức tranh sinh động cảnh ngày hè.
– Phải là một người có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống lắm, nhà thơ mới có thể quan sát tỉ mỉ, lắng nghe và cảm được sự phát triển, trỗi dậy của cỏ cây, hoa lá, của âm thanh sống động trước cuộc sống đời thường.
c. Nỗi niềm, khát vọng yên bình, no ấm cho muôn dân:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếngDân giàu đủ khắp đòi phương”
– Trong ý thơ đặc sắc này, nhà thơ đã mượn điển tích tiếng đàn của Ngu Thuấn để giãi bày khát khao mãnh liệt.
– Ông mong ước có cây đàn để đánh lên khúc “Nam Phong” cho nhân dân nơi nơi “giàu đủ”, hạnh phúc. Đó chính là cái đẹp trong tâm hồn Nguyễn Trãi. Những ngày dài tưởng như về ở ẩn nhàn rỗi nhưng vẫn luôn đau đáu một nỗi niềm yêu nước, thương dân.
– Câu thơ cuối chỉ sáu từ với nhịp thơ 2/2/2 vang lên như tiếng lòng của nhà thơ, cảm xúc dồn nén chất chứa nhiều nỗi niềm sâu thẳm. Nó không chỉ có vậy, câu thơ còn bộc lộ tâm sự về thời thế lúc bấy giờ, mong một triều đình anh minh giúp cho quốc thái dân an.
III. Kết bài:
– Bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi đã rất thành công vẽ nên một bức tranh ngày hè rực rỡ, đầy sức sống.
– Qua đó bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước và niềm khát khao cháy bỏng luôn đau đáu trong tim nhà thơ về một cuộc sống bình yên, no đủ cho muôn dân.
Dàn ý Cảnh ngày hè – mẫu 9
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi: Nguyễn Trãi là một trong những cây đại cổ thụ của nền văn học trung đại Việt Nam, đã góp vào kho tàng văn học trung đại Việt Nam nhiều tác phẩm bằng cả chữ Hán và chữ Nôm
– Giới thiệu về tập Quốc âm thi tập: tác phẩm chữ Nôm xuất sắc của Nguyễn Trãi. Với thể thơ Đường luật được sử dụng thuần thục như thể thơ dân tộc, tập thơ đã vẽ nên chân dung, con người Nguyễn Trãi.
– Giới thiệu khái quát về bài thơ “Cảnh ngày hè”: bài số 43 trong số 61 bài của mục Bảo kính cảnh giới trong Quốc âm thi tập là một trong số những bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Trãi.
2. Thân bài
a. 6 câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống
– Câu 1: hoàn cảnh đặc biệt của tác giả
– Bức tranh thiên nhiên, cảnh vật
+ Hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên, cảnh vật lúc vào hè: hòe lục, thạch lựu hiên, hồng liên trì
+ Sử dụng động từ mạnh gợi nên sức sống căng tràn của cảnh vật: đùn đùn, phun, tiễn
– Bức tranh cuộc sống: tác giả đã sử dụng thính giác để cảm nhận cuộc sống, dùng âm thanh để tái hiện lại sinh động và chân thực bức tranh cuộc sống
+ Lao xao chợ cá: âm thanh gần gũi, gợi nên sự sống của con người
+ Dắng dỏi cầm ve: âm thanh đặc trưng của mùa hè, gợi nên sự rộn rã, tươi vui
=> Bằng sự cảm nhận tinh tế của tất cả các giác quan, sự tinh tế trong cách cảm nhận và tình yêu thiên nhiên sâu sắc, tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên và cuộc sống ngày hè với tất cả màu sắc, đường nét, âm thanh, tất cả luôn căng tràn sự sống.
b. 2 câu thơ còn lại: Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ
– Ông ước mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn để cầu mong cho “dân giàu đủ”.
– Với việc mượn điển tích cây đàn của vua Ngu Thuấn để tự răn mình đã cho chúng ta thấy chí hướng cao cả: luôn khao khát đem tài trí để thực hành tư tưởng nhân nghĩa yêu nước thương dân.
3. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ: sử dụng thể thơ Đường luật, hình ảnh thơ độc đáo đã cho chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh cảnh ngày hè. Đặc biệt, qua đó giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi – một tình yêu thiên nhiên sâu sắc, một tấm lòng trọn đời lo cho dân cho nước.
Dàn ý Cảnh ngày hè – mẫu 10
1. Mở bài: Giới thiệu vài nét về nhà thơ Nguyễn Trãi và bài thơ Cảnh ngày hè.
2.Thân bài
a. Sáu câu thơ đầu: “Rồi hóng mát… tịch dương”
– Bức tranh thiên nhiên:
+ “Rồi hóng mát thuở ngày trường”: Giới thiệu về cuộc sống của Nguyễn Trãi khi về ở ẩn sau những tháng ngày bận rộn lo cho dân, cho nước: Rảnh rỗi, nhàn hạ với những hoạt động nhẹ nhàng, thư thái, thảnh thơi.
+ Bức tranh thiên nhiên mùa hè: “Hòe đùn… mùi hương”
+ Sự vật đặc trưng, quen thuộc của mùa hè: Cây hòe, cây lựu, hoa sen.
+ Màu sắc nổi bật: Màu xanh của hòe, đỏ của lựu, hồng của hoa sen…
+ Trạng thái của các sự vật: “đùn đùn, rợp, phun, tiễn…”
+ Mùi hương: Hoa sen cuối hạ.
+ Bức tranh mùa hè sống động, rực rỡ.
– Bức tranh cuộc sống con người: “Lao xao… tịch dương”
+ Âm thanh: Từ “chợ cá làng như phủ”; tiếng ve gọi hè
+ Nghệ thuật: Từ láy “lao xao”, “dắng dỏi”; nghệ thuật đảo cấu trúc câu
+ Cuộc sống ồn ã, tràn đầy sức sống của con người nơi đây.
+ Tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của Nguyễn Trãi.
b. Phân tích hai câu thơ cuối: “Dẽ có Ngu cầm… đòi phương”
– Điển tích, điển cố “Ngu cầm”: Câu chuyện về hai vị vua nổi tiếng nhân đức Nghiêu – Thuấn, luôn chăm lo cho đời sống nhân dân bởi vậy mà hai triều đại này vô cùng hưng thịnh, thái bình; dân chúng ấm no, hạnh phúc. Mỗi ngày, vua thường đem đàn khúc Nam Phong ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị.
– Ước nguyện của Nguyễn Trãi: Ước có cây đàn ngợi ca khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và cuộc sống thanh bình nơi quê hương; ước nguyện lớn nhất là đất nước yên bình, nhân dân ấm no, hạnh phúc.
– Tấm lòng của nhà thơ: Tuy về quê ở ẩn nhưng vẫn nặng lòng với dân, với nước.
3.Kết bài: Khẳng định lại giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm Cảnh ngày hè.
Dàn ý Cảnh ngày hè – mẫu 11
1.Mở bài
– “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi là bài số 43 trong chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” của “Quốc âm thi tập”.
– Bài thơ cho ta thấy vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và tấm lòng yêu nước thương dân của tác giả.
2.Thân bài
a. Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên là cuộc sống ngày hè:
– Cây hòe màu xanh lục có tán lá giương cao che rợp.
– Cây thạch lựu bên hiên nhà đang tràn trề sắc đỏ.
– Hoa sen màu hồng đang tỏa ngát hương thơm.
– Qua những chi tiết trên ta thấy cảnh vật tươi tắn, rực rỡ
– Với động từ: “rợp, phun, tiễn” ta thấy cảnh vật ngày hè sinh sôi nảy nở.
– Cùng với từ láy: “đùn đùn, lao xao, dắng dỏi” đã tô thêm bức tranh ngày hè sôi động náo nhiệt.
– Tác giả đã sử dụng đảo ngữ: “lao xao chợ cá, dắng dỏi cầm ve” cho ta thấy cuộc sống yên bình, hạnh phúc, ấm no.
– Nhà thơ đã cảm nhận bức tranh ngày hè bằng thị giác nhìn thấy cây hòe màu xanh lục, thạch lựu màu đỏ, hoa sen màu hồng, những chú ve, người dân làng chài.
– Ngoài ra nhà thơ đã nghe thấy âm thanh những người dân làng chài cười nói và tiếng ve râm ran trong chiều ta như tiếng đàn dội lên.
– Nhà thơ còn ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt của hoa sen.
– Nguyễn Trãi là người yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống.
b. Vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ:
– Ta thấy được tác giả ung dung dạo chơi ngắm cảnh qua câu “rồi hóng mát thuở ngày trường”.
– Tác giả mong ước có cây đàn của vua ngu thuấn để hát ca ngợi cuộc sống thái bình.
– Lúc nào, Nguyễn Trãi cũng khao khát mang lại cuộc sống hạnh phúc ấm no cho dân.
– Nguyễn Trãi là người yêu nước thương dân.
3.Kết bài: Đánh giá về nội dung bài thơ, tấm lòng của Nguyễn Trãi.
Dàn ý Cảnh ngày hè – mẫu 12
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Nguyễn Trãi một nhà thơ, nhà văn tài năng kiệt xuất của dân tộc, ông đã có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà
+ Cảnh ngày hè một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và tấm lòng yêu nước thương dân của tác giả.
2. Thân bài
– Bức tranh cảnh ngày hè nổi lên với bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ:
+ Cây hòe có sức sống mãnh liệt giờ tán là xanh che phủ cả khoảng không gian
+ Sắc đỏ của cây thạch lựu tô đậm thêm cho khung cảnh ngày hè
+ Hương hoa sen tỏa ngát bay theo làn gió
=> Cảnh vật ngày hè tươi tắn tràn đầy sức sống
– Nghệ thuật ngôn từ được sử dụng:
+ Từ láy: đùn đùn, lao xao, dắng dỏi…-> Cảnh ngày hè xôn xao, náo nức, không khí rất nhộn nhịp
+ Động từ: rợp, đùn, tiễn đưa khiến cho người đọc thấy được cảm giác sức sống trỗi dậy của cảnh vật mùa hè
– Nhà thơ đã cảm nhận cái tinh tế, thú vị của ngày hè qua thị giác và thính giác:
+ Nhà thơ nhìn những tán là xanh cây hòe, màu đỏ rực của thạch lựu, tiếng ve kêu ran cả khoảng không gian và hình ảnh người dân làng chài mỗi sớm thức dậy và bóng người kéo lưới buổi chiều ta.
+ Ngày hè cảm nhận qua thính giác khi nhà thơ thấy được hương sen thoảng theo gió
=> Tâm hồn nhà thơ Nguyễn Trãi được hòa vào thiên nhiên, nói lên được tác giả là người rất yêu đời, yêu cuộc sống.
– Tình yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi:
+ Phong thái ung dung tự tại của nhà thơ khi về ở ẩn không muốn vướng bận đến chuyện quan trường.
+ Những trong thâm tâm ông luôn nghĩ về dân, lo cho dân, lo cho nước, ông luôn khao khát nhân dân được hưởng một cuộc sống thái bình, no đủ.
+ Ca ngợi các đời vua ngự trị anh minh mang đến cuộc sống hạnh phúc, ấm no
3. Kết bài
Nhấn mạnh lại tình yêu thiên nhiên của tác giả đồng ca ngợi đức tính tốt đẹp của bậc thi nhân dù xin cáo quan về ở ẩn nhưng vẫn một lòng lo cho sự nghiệp chung đất nước.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè (mẫu 1)
Nguyễn Trãi – một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Ông luôn sống giao cảm với thơ với cuộc sống thiên nhiên và con người. Chốn quan trường với những toan tính chèn ép đã khiến ông đã quyết định tìm về với thiên nhiên để cho tâm hồn mình thanh tịnh. Trong thời gian ấy ông làm thơ về thiên nhiên nhưng trong những vần thơ thiên nhiên ấy lại có những tâm sự về sự lo lắng cho nhân dân đất nước. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là một bài thơ như thế. Trong thiên nhiên mùa hè và cảnh sống sinh hoạt của nhân dân Nguyễn Trãi vẫn thể hiện tình yêu nhân dân đất nước của mình.
Trước hết là câu thơ đầu thể hiện tâm trạng của nhà thơ trong những ngày hè, nhưng ngày về cáo quan ở ẩn:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Chúng ta thấy rõ được chữ “rồi” ở đầu câu thể hiện một tâm trạng rảnh rỗi của nhà thơ ở quê. Nó không có sự bon chen đố kỵ, chèn ép của những tinh thần. Tại sao nhà thơ không nói là rỗi mà lại là “rồi”? Có thể nói chữ “rỗi” và chữ “rồi” đều nói lên cùng một tâm trạng nhưng nhà thơ sử dụng từ “rồi” gợi cảm giác xưa cũ hơn. Bởi vì từ “rỗi” là sau này mới có, nó mang tính chất hiện đại. Nhà thơ cáo quan về với thiên nhiên làng cảnh Việt Nam.
Những câu thơ tiếp theo nhà thơ vẽ lên một bức tranh cảnh ngày hè vô cùng rực rỡ. Bức tranh ấy không chỉ có thiên nhiên mà còn có cả con người.
Trước tiên là bức tranh thiên cảnh ngày hè nơi thôn quê. Có thể nói Nguyễn Trãi giống như một nhà họa sĩ dùng ngôn từ để vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ấy:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Cây hoa hòe tán rộng tỏa bóng mát khắp đầu tường. Tiếp đó nhà thơ vẽ thêm những bông hoa thạch lựu trước hiên nhà có màu đỏ rực rỡ như ánh nắng chói chang của mùa hạ kia vậy. Nhắc đến quê hương người ta không thể nào quên được hình ảnh những bông hoa sen hồng với hương sắc tuyệt vời. Nhà thơ không nói hẳn là hoa sen mà dùng hai chữ “hồng liên” gợi sự trang trọng cổ kính. Trong bức tranh ấy ta không chỉ thấy màu sắc mùi hương mà ta còn thấy được cả sự sinh trưởng của chúng. Cây hoa hòe “đùn đùn”, cây thạch lựu “phun”, hoa sen “tiễn” mùi hương. Mùa hạ quả đúng là mùa của sinh trưởng cho những loại cây cối. Sức sống ấy mạnh mẽ như các động từ mạnh kia vậy. Hương thơm của hoa sen cũng như bay xa hơn thoảng vào không gian nhiều hơn qua từ “tiễn” ấy. Chữ tiễn ấy không phải là tiễn biệt chia ly mà chứ tiễn như thể hiện cái sự bay xa của hương sen trong cơn gió kia làm cho không gian làng quê ngát hương.
Bức tranh ấy còn có cả những cuộc sống sinh hoạt của con người làng quê. Thật vậy tranh thiên nhiên đã đẹp nhưng nó còn đẹp hơn khi xuất hiện hoạt động sự sống của con người:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Từ láy “lao xao” như thể hiện được hết cái vui tươi của con người lao động trong những buổi chợ. Chợ có đông thì mới có niềm vui như thế, có tiếng động như thế. Cái âm thanh ấy như tác động đến tâm hồn người nghệ sĩ. Chợ cá kia dường như có rất nhiều đồ khiến cho người dân nơi đây náo nức, mua bán. Có thể nói rằng đó chỉ là cuộc sống đời thường thôi nhưng tại sao khi cảm nhận ở đây ta lại thấy nó đẹp đến thế. Có khi nào cái đẹp xuất phát từ những cái quá đỗi bình thường không? Thế rồi âm thanh của những con ve gọi hè. Tiếng ve như dắng dỏi tạo nên thành một dàn đồng ca mùa hạ ngân nga ngày đêm không biết mệt.
Trước những thiên nhiên và con người nhà thơ như thể hiện những ước nguyện của mình. Nhà thơ thật thà thể hiện tấm lòng của mình:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Câu thơ thể hiện ước nguyện của nhà thơ mong muốn mượn được chiếc đàn của vua Ngu Thuấn đàn một tiếng cho nhân dân giàu khắp bốn phương. Từ truyền thuyết tiếng đàn của vua Ngu Thuấn nhà thơ thể hiện ước nguyện sự lo lắng cho nhân dân. Mong có thể giúp đỡ cho nhân dân có một cuộc sống đầy đủ yên ổn thái bình.
Như vậy qua đây ta thấy được một bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp, tất cả nhưng màu sắc đều thể hiện đặc trưng của mùa hè. Có thể nói chắc hẳn nhà thơ phải là một người yêu thiên nhiên nhiều lắm thì mới có thể cảm nhận được cả những bước sinh trưởng của cây cối mùa hè như thế. Đồng thời ta cũng thấy được một tâm hồn trung nghĩa với nhân dân. Mặc dù xa rời quan trường nhưng ông không lúc nào không lo cho nhân dân, mong muốn nhân dân có một cuộc sống an lành bình yên.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè (mẫu 2)
Nguyễn Trãi là vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tài năng kiệt xuất của ông không chỉ được khẳng định trong lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn được khẳng định qua sự nghiệp văn chương đồ sộ với những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà.
Lí tưởng mà Nguyễn Trãi ôm ấp lá giúp vua làm cho đất nước thái bình, nhân dân thịnh vượng. Lí tưởng cao đẹp ấy là nguồn động viên mạnh mẽ khiến ông vượt qua mọi thử thách, gian nan trên đường đời. Lúc được nhà vua tin dùng cũng như khi thất sủng, nỗi niềm lo nước, thương dân luôn canh cánh bên lòng ông. Giông bão cuộc đời không thể dập tắt nổi ngọn lửa nhiệt tình trong tâm hồn người chí sĩ tài đức vẹn toàn ấy.
Bài thơ “Cảnh ngày hè” được sáng tác vào thời gian Nguyễn Trãi về nghỉ ở Côn Sơn. Ông tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập ngựa xe và chốn cửa quyền hiểm hóc để về với thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi thôn dã, bầu bạn cùng dân cày cuốc, cùng mây nước, chim muông, hoa cỏ hữu tình. Trong những tháng ngày dài nhàn nhã bất đắc dĩ ấy, nhà thơ có lúc thấy vui trước cảnh vật mùa hè tưng bừng sức sống và kín đáo gửi vào những vần thơ tả cảnh một thoáng khát vọng mong cho dân giàu, nước mạnh. Bài thơ phản ánh tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước.
Bài thơ mở đầu bằng câu lục ngôn nêu rõ hoàn cảnh của nhà thơ lúc đó: “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Lẽ ra câu thơ phải bảy chữ mới đúng là thể thất ngôn bát cú quen thuộc, song Nguyễn Trãi đã lược đi một chữ. Đây cũng là một cách tân táo bạo, mới mẻ trong thơ Nôm nước ta thuở ấy. Nhịp thơ 1/2/3, chậm rãi phản ánh tư thế ung dung, tự tại vốn có của tác giả.
Chữ “rồi” tách riêng thành một nhịp thể hiện cảm nhận của tác giả về tình cảnh của mình. “Rồi” là từ cổ, cổ nghĩa là nhàn nhã, không vướng bận điều gì. Cuộc đời Nguyễn Trãi thường không mấy lúc được thảnh thơi. Đây là lúc ông được sống ung dung, được thỏa ước nguyện hòa mình với thiên nhiên mà ông hằng yêu mến.
Không có việc gì quan trọng, cần kíp để làm cả, chỉ có mỗi “việc” là hóng mát. “Ngày trường” là ngày dài. Đây là cảm giác tâm lý về thời gian của người đang sống trong cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người ưa suy nghĩ, hành động như Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng rõ hơn bao giờ hết. Giữa lúc xây dựng lội non sông sau chiến tranh, việc dân việc nước bời bời mà ông bị bắt buộc phải hóng mát hết ngày này qua ngày khác thì quả là trớ trêu. Bởi vậy, ông rơi vào cảnh thân nhàn mà tâm bất nhàn. Đằng sau câu thơ trên dường như thấp thoáng một nụ cười chua chát của Nguyễn Trãi trước tình cảnh trớ trêu ấy.
Chỉ có vẻ đẹp hồn nhiên, vô tư của cảnh vật mới có thể tạm xua đi những áng mây buồn vương vít trong tâm hồn ông. Ông mở lòng đón nhận thiên nhiên và thấy vui trước cảnh:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Chỉ vài nét bút phác họa mà bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước sân, cây trong ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa hương. Cây hòe với tán lá xanh um xoè rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông hoa đỏ thắm và sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn thi sĩ.
Ba câu thơ nổi đến ba loại cây: “hòe, lựu, sen” nhưng chẳng lẽ tác giả chỉ nói đến cây? Dường như có cả con người lồng trong đó, hết sức kín đáo. Các từ đùn đùn (dồn dập tuôn ra), giương (tỏa rộng ra), phun, tiễn (ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, ấn tượng. Câu thơ thứ hai ngắt nhịp 4/3, hai câu thơ tiếp theo đổi nhịp thành 3/4, tạo thêm cho cảnh vật vẻ sinh động, rộn ràng. Giữa cảnh với người có nét tương đồng nào chăng? Đời người anh hùng cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên sức sống vẫn chảy mạnh trong huyết quản. Thức đỏ (màu đỏ) của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của tấm lòng sắt son với dân với nước? Mùi hương thơm ngát của sen có phải là lý tưởng chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu vì đất nước thanh bình, vì nhân dân hạnh phúc. Rõ ràng ở đây, cảnh và người có những nét tương đồng và đều đẹp đẽ, hài hòa.
Ở bốn câu thơ trên, nhà thơ mới nhắc đến màu sắc, hương thơm, cây cỏ; ở hai câu thơ tiếp theo còn có thêm mùi vị, âm thanh, hình ảnh con người và cảnh vật:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Từ tượng thanh “lao xao” đặt trước hình ảnh chợ cá làm nổi bật không khí nhộn nhịp của làng ngư phủ. Lao xao tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Những âm thanh lao xao ấy hòa vào tiếng ve kêu dắng dỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, báo hiệu chấm dứt một ngày hè nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều tà thường gợi buồn, nhưng với nhà thợ lúc này, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên.
Cỏ cây, hoa lá, con người đầy sức sống khơi dậy trong lòng nhà thơ cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng và những suy nghĩ chân thành, tâm huyết nhất. Đó là tình yêu cuộc sống, yêu con người và trách nhiệm đối với dân với nước. Nguyễn Trãi luôn tâm niệm lấy dân làm gốc (dân vi bản, dân vi quý) cho nên trước thiên nhiên tươi xanh, trước những con người cần cù, lam lũ, lòng ông lại dấy lên khát vọng mãnh liệt:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Ông ước gì lúc này có được trong tay cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để nổi lên niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ. Ẩn giấu đằng sau lời ước mong ấy là sự trách móc nhẹ nhàng mà nghiêm khắc bọn quyền thần tham bạo ở triều đình đương thời không còn nghĩ đến dân, đến nước. Theo ông, với cảnh nước non tươi đẹp cùng nhân dân chất phác, siêng năng, cuộc sống lẽ ra phải được trở lại ấm no, hạnh phúc từ lâu.
Vậy là dẫu hòa hợp đến hết mình với thiên nhiên, Nguyễn Trãi vẫn không nguôi nỗi niềm dân nước, ông tìm thấy ở thiên nhiên cỏ hoa xinh tươi kia một nguồn thi hứng, nguồn động viên, an ủi và khích lệ đáng quý đối với bản thân. Điều đó góp phần tạo nên cốt cách của Nguyễn Trãi, bậc trượng phu – chính nhân quân tử – hiên ngang như cây tùng, cây bách trước giông bão cuộc đời.
Cảnh ngày hè là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trãi về hình thức thơ. Câu thất ngôn xen lục ngôn, các vế đối rất chỉnh, cách sử dụng từ láy rất tài tình. Để tăng sức biểu hiện của các tính từ và động từ, tác giả đem chúng đặt ở đầu câu. Đây là bài thơ tả cảnh ngày hè tràn đầy sức sống. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh sắc đặc trưng của mùa hè, mà còn là “tức cảnh sinh tình”. Cảnh ở đây thể hiện niềm vui sống, háo hức, tươi tắn, trẻ trung của tâm hồn nhà thơ Và niềm ao ước của Nguyễn Trãi về hạnh phúc cho dân chúng muôn phương.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè (mẫu 3)
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp gương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi đã cho thấy một tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân và yêu đất nước của nhà thơ.
Trong bức tranh đậm màu, nền trời chiều ráng đỏ, một ngôi lầu vắng lặng, cây hoè cổ thụ ngoài sân tán xanh thẫm, che rợp, bên hiên nhà cây thạch lựu sắc đỏ. Vài ba chú ve trên các cành cây. Ao sen hồng và xa xa là làng chài đang họp chợ. Có một người ngồi trên lầu trâm ngâm. Xem tranh, trước hết ta thấy một tư thế của con người ngồi đó. Câu mở đầu “hóng mát” – ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi.
Nên nhớ, đây là bức tranh thơ của vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, từng “đau lòng nhức óc” vì vận nước từng cùng Lê Lợi “dựng cấu trúc ngọn cờ phấp phới” và sau này sắm vai ẩn sĩ mà tấm lòng vì dân nước không lúc nào yên: “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng”. Đặt trong nỗi truân chuyên của cuộc đời Nguyễn Trãi, mới thấy quý cái giây phút ngắn ngủi hiếm hoi này, mới thấy cái tư thế ung dung thưởng ngoạn kia là sự hưởng thụ chân chính. Sau tư thế ấy, thấy cả cái không khí yên bình của cả một làng quê, đất nước vừa qua cơn binh lửa.
Con người này có ánh mắt tinh tế, say mê. Người ngắm cảnh có đôi mắt rất sành: ba loại cây, ba dáng vẻ, không trùng lặp. Tả cây, mà lộ ra khuôn mặt của mùa hè. Cây hòe: tán xanh xum xuê, toả rộng – sức sống vươn cao. Thạch lựu: sắc đỏ – rực rỡ của tố chất khoẻ mạnh. Sen hồng: đậm hương – tâm hồn nồng hậu, thanh cao. Ba loại cây, ba dáng vẻ, ba màu sắc nửa (xanh, đỏ, hồng) đều có hồn. Ngôn ngữ của thơ thay cho chất liệu màu của họa là lời nói sống động của đời thường. Chữ “đùn đùn” khiến ta cảm nhận được sự sống đang nảy nở mạnh mẽ, trông thấy được bằng mắt thường. Chữ “phun” còn lạ hơn. Không tả hoa đỏ, mà cảm nhận cây lựu đang phun, đang tuôn ra sắc đỏ. Sen hồng cố đậm hương. Con ve kia cũng gắng hết sức trong những tiếng kêu cuối cùng. Chợ ở làng chài đang náo nhiệt nên vọng xa lao xao…
Ta bất ngờ nhận ra điều kì lạ. Con người hoạ sĩ trong thi nhân Nguyễn Trãi thế kỉ XV ở Việt Nam có gì rất gần gũi đại danh hoạ Hà Lan thế kỉ XIX, V.Van-gốc. Không phải ở những sắc màu được sử dụng, mà ở cách diễn tả nó. Van-gốc vẽ đồng lúa ta cứ ngỡ cánh đồng bốc cháy. Hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa. Van-gốc đốt cháy mình trong tranh. Nguyễn Trãi cũng đốt cháy mình trong thơ. Chữ “đùn đùn”, “phun”, “tiễn”, “lao xao”, “dắng dỏi” là lửa sống rừng rực trong lòng Ức Trai mặc cho do thời thế ông đang phải lui về quy ẩn “Rồi, hóng mát thuở ngày trường”.
Trong bức tranh này, thính giác nhạy bén đã giúp Nguyễn Trãi “vẽ” cảnh bằng nhạc. Xa xa, chợ cá không rõ hình, song âm thanh “lao xao” chở hồn đến cho người đọc cái rộn ràng nhộn nhịp, náo nhiệt của cuộc sống thanh bình. Nếu “lao xao” là khúc hòa tấu của đời sống dân sinh, thì “dắng dỏi cầm ve” tấu lên âm thanh của cây đàn độc huyền, ngân lên thiết tha cuối chiều, vấn vương nét quý tộc, lầu cao đơn độc. Hai phong điệu dân dã và quý tộc hoà hợp, bởi chất keo dính của đời thường, đậm đà hơi thở sống.
Cho nên vẽ bức tranh này đâu chỉ là chuyện của giác quan chuyên nghiệp họa sĩ hay thi sĩ mà là năng lực, phẩm chất của tâm hồn – tâm hồn tinh tế, đằm thắm của một con người hết mực yêu đời, say mê cuộc sống.
Bức tranh “Cảnh ngày hè” có một lời bình – một suy ngẫm đứng riêng, độc lập:
“Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu cảm, khách thể sang chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết. Ấy là một giấc mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời. Giấc mơ, đó là giấc mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người Phương Đông sống trong thời trung đại. Mong sao có một bậc vua hiền để được yên ổn ấm no hạnh phúc. Trước hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu: “Vận nước như mây cuốn/Trời Nam mở thái bình/Vô vi trên điện các/Xứ xứ tức đao binh”. Vận nước có rối ren thế nào cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng làm điều gì nhiễu nhương thì khắp nơi đều hết nạn binh đao. Sau mấy mươi năm, vị vua hiền minh Lê Thánh Tông cố sức mình cũng chỉ để thỏa lòng mong muốn:
“Nhà nam nhà bắc đều có mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình”
Bây giờ đây, ưu tư thế cuộc, nhìn đời – từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống như thế, Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình thiên hạ sao cho dân giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân.
Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí. Đó là tư tưởng “thân dân” (dĩ dân vi bản) từng được vạch rõ trong Bình Ngô đại cáo – “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đó là tư tưởng lớn. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng ấy từng sôi sục trong hành động, khắc khoải trong tâm tưởng, rát bỏng trong thi ca. Cả bài thơ 8 chữ, đến tận dòng cuối cùng, chữ “dân” mới bật ra, song chính là cái nền tư tưởng, tình cảm của tác giả, cái hồn của bài thơ. Là sợi chỉ đỏ xâu chuỗi cả tám câu thơ lại.
“Cảnh ngày hè” không định giáo huấn chung. Trước đời sống đang dâng trào, yên lành thế, Nguyễn Trãi tự răn mình, phải làm sao cho cuộc sống này trở thành mãi mãi và chỉ khắc khoải một nỗi “tiên ưu” ấy mà thôi.
Đã có lời giải bài tập lớp 10 sách mới:
- (mới) Giải bài tập Lớp 10 Kết nối tri thức
- (mới) Giải bài tập Lớp 10 Chân trời sáng tạo
- (mới) Giải bài tập Lớp 10 Cánh diều
Săn SALE shopee tháng 6:
- Tsubaki 199k/3 chai
- L’Oreal mua 1 tặng 3
- La Roche-Posay mua là có quà:
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!