TOP 7 bài Cảm nhận bài thơ Từ ấy siêu hay – Lớp 11 – Download.vn

TOP 7 mẫu Cảm nhận Từ ấy của Tố Hữu mà Download.vn giới thiệu dưới đây sẽ là tư liệu cực kì hữu ích với các bạn học sinh lớp 11. Với 7 bài cảm nhận Từ ấy giúp các bạn nắm được các luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch. Từ đó biết cách trình bày, sắp xếp các lí lẽ để làm nổi bật vấn đề cần phân tích bài thơ hay, xúc tích.

Bài thơ Từ ấy như một lời thức tỉnh thế hệ trẻ phải có nhận thức về lí tưởng, tìm kiếm lí tưởng của mình để lấy đó làm lẽ sống, là mục đích của cuộc đời. Để hiểu rõ hơn về nội dung bài thơ, mời các bạn cùng theo dõi 7 mẫu cảm nhận bài thơ Từ ấy dưới đây. Ngoài ra các bạn xem thêm kết bài Từ ấy, mở bài Từ ấy.

Dàn ý cảm nhận bài thơ Từ ấy

a) Mở bài

– Giới thiệu nhà thơ Tố Hữu và bài thơ Từ ấy.

b) Thân bài

* Tâm trạng vui sướng của nhân vật trữ tình khi bắt gặp lý tưởng cộng sản

– Thời điểm “Từ ấy”: là khi Tố Hữu được giác ngộ Cách Mạng, được dẫn dắt vào con đường giải phóng dân tộc

– Hình ảnh ẩn dụ: “nắng hạ”, “mặt trời chân lý” => thể hiện niềm vui khi tìm thấy lẽ sống cao đẹp cho cuộc đời trong buổi đầu đến với Cách Mạng

– Từ ngữ: “chói”, “bừng”, “rộn”, “rất đậm” => khẳng định lý tưởng cộng sản mở ra cho thế giới tâm hồn một nhận thức mới khiến tâm hồn vui tươi phơi phới

=> Khổ thơ là tiếng reo vui đầy phấn trấn của tác giả khi được giác ngộ lý tưởng cộng sản

* Lý tưởng cộng sản làm thay đổi nhận thức sâu sắc của nhân vật trữ tình

– Đại từ nhân xưng “tôi”: bộc lộ sâu sắc ý thức cá nhân

– Từ “buộc”, “trang trải”: thể hiện sự gắn kết, chia sẻ của nhà thơ với quần chúng cần lao

– Các từ “Mọi người”, “trăm nơi”, “hồn khổ”: chỉ đối tượng là quần chúng lao khổ trên mọi miền đất nước

– Hình ảnh ẩn dụ “khối đời”: khiến khái niệm về cuộc đời vốn trừu tượng trở nên hữu hình

=> Khổ thơ là sự gắn kết của cái tôi cá nhân với cái ta cộng đồng. Khi cái tôi hòa vào cái ta chung sẽ tạo nên một cuộc đời gắn bó, tạo nên một sức mạnh lớn lao.

* Lý tưởng cộng sản giúp nhà thơ vượt qua những tình cảm ích kỉ, hẹp hòi để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ

– Kết cấu định nghĩa “tôi…là” được sử dụng xuyên suốt khổ thơ tạo nhịp điệu khỏe khoắn, nhấn mạnh ý thức vững vàng của nhà thơ khi gắn kết với cộng đồng

– Điệp từ “của” kết hợp với hệ thống từ xưng hô chỉ quan hệ máu mủ “anh”, “em”, “con”: tình cảm của nhà thơ với quần chúng nhân dân gần gũi, khăng khít như anh em ruột thịt

– Điệp từ “vạn” kết hợp với các hình ảnh “vạn nhà”, “vạn kiếp phôi pha”, “vạn đầu em nhỏ”: thể hiện những số phận cơ cực, vất cả, nhỏ bé trong xã hội. Từ đó nói lên tình nhân ái bao la, mang tính giai cấp

=> Tố Hữu tự nguyện chọn một chỗ đứng trong lòng dân tộc, coi mình là một thành viên ruột thịt trong gia đình quần chúng cần lao => thể hiện tinh thần dân tộc, tính nhân đạo sâu sắc

* Nội dung, nghệ thuật của bài thơ

– Giá trị nghệ thuật:

  • Sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, so sánh đặc sắc
  • Nhịp điệu thơ dồn dập, da diết
  • Diễn tả tâm trạng vui sướng, say mê của nhà thơ khi đón nhận lý tưởng cộng sản

– Giá trị nội dung:

  • “Từ ấy” là bản tuyên ngôn về nhận thức và quan điểm sáng tác của Tố Hữu
  • Tuyên ngôn về nhận thức: nhà thơ nguyện đi theo ánh sáng của Đảng, gắn bó với quần chúng lao khổ
  • Tuyên ngôn về nghệ thuật: sáng tạo văn học không mơ mộng, viển vông, người nghệ sĩ phải đứng trong hàng ngũ, gần gũi với quần chúng nhân dân.
  • Từ đây, Tố Hữu chính thức định hình phong cách của một ngòi bút trữ tình chính trị.

c) Kết bài

  • Hồn thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm biết ơn sâu sắc cách mạng.
  • Thơ Tố Hữu rõ ràng là thơ trữ tình – chính luận, hướng người đọc đến chân trời tươi sáng.
  • Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một nhà thơ vô sản chân chính.
  • Giọng thơ chân thành, sôi nổi, nồng nàn.

Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài Từ ấy

Cảm nhận Từ ấy ngắn nhất – Mẫu 1

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Tố Hữu là một trong những cây bút tiêu biểu với tiếng thơ trữ tình – chính trị. Thơ ông có sự gắn bó chặt chẽ với chặng đường đấu tranh của dân tộc với những biến động trong đại trong lịch sử chống xâm lược. Tác phẩm “Từ ấy” ra đời vào tháng 7-1938 đã đánh dấu mốc son chói lọi trong cuộc đời tác giả khi bắt gặp lí tưởng cách mạng.

Bài thơ được gợi mở bằng những cảm xúc về niềm vui sướng hân hoan của nhà thơ khi vừa được kết nạp vào Đảng:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạMặt trời chân lý chói qua timHồn tôi là một vườn hoa láRất đậm hương và rộn tiếng chim…”

“Từ ấy” là khoảng thời gian phiếm chỉ gợi nhiều cảm xúc, đó là sự nghẹn ngào, hân hoan vui sướng ngập tràn trong tâm hồn nhà thơ. Đồng thời, đánh dấu, nhấn mạnh cột mốc quan trọng trong cuộc đời nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cộng sản. Tác giả đã sử dụng hình ảnh “nắng hạ” – ánh nắng mùa hè rực sáng , thiêu đốt để ẩn dụ cho ánh sáng cách mạng đang bừng lên rực rỡ, bùng cháy trong lí trí của tác giả. Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời chân lí” đã khẳng định sức mạnh soi sáng của Đảng. Nếu mặt trời thiên nhiên đem đến ánh sáng, sự sống cho muôn loài thì ánh sáng của Đảng chiếu rọi tâm tưởng, trái tim, tạo nên niềm hạnh phúc của nhà thơ. Như vậy, “Từ ấy” trở thành tiếng reo ca đầy hân hoan, sôi nổi của con người đang “Bâng khuâng đi kiếm lẽ ở đời” để rồi bắt gặp được lí tưởng cách mạng. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh như “bừng”, “chói” để khẳng định sức ảnh hưởng lớn lao cùng sức mạnh của lí tưởng, ánh sáng cách mạng. Ở hai câu thơ tiếp theo, chúng ta có thể thấy được cảm xúc hân hoan, vui sướng đến tột cùng thông qua biện pháp nghệ thuật so sánh: “Hồn tôi là một vườn hoa lá”. Tâm hồn nhà thơ ngập tràn hương thơm hoa lá và rộn ràng tiếng chim, thể hiện trạng thái sôi nổi của bản thân khi nhận ra ánh sáng, lí tưởng của Đảng. Trong niềm hân hoan đó, tác giả đã tìm thấy lẽ sống cao cả của đời mình:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi ngườiĐể tình trang trải với trăm nơiĐể hồn tôi với bao hồn khổGần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Tác giả đã sử dụng đại từ xưng hô “tôi”, nhưng không phải là cái “tôi” của cá nhân riêng tư mà là cái “tôi” gắn bó với mọi người. Điệp ngữ “để” được nhắc lại hai lần ở mỗi câu thơ tạo nên hình thức thơ vắt dòng, nhấn mạnh nhấn mạnh ý thức tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với cuộc đời của dân tộc, nhân dân từ khi giác ngộ lí tưởng cách mạng. Đồng thời, hàng loạt động từ “buộc”, “trang trải”, “gần gũi” đã thể hiện tình cảm gắn bó với nhân dân và sự nghiệp cách mạng một cách dứt khoát của người chiến sĩ, người thanh niên yêu nước đã tìm thấy lẽ sống, lí tưởng cao cả của cuộc đời mình. Như vậy, qua giọng thơ sảng khoái, hân hoan, cái “tôi” của tác giả đã hòa chung với cái “ta”, cá nhân hòa chung cộng đồng một cách tự nguyện, quyết liệt và dứt khoát để “mạnh khối đời” – khối đại đoàn kết dân tộc. Đó cũng chính là phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ khép lại bằng sự chuyển biến về tình cảm của tác giả:

“Tôi đã là con của vạn nhàLà em của vạn kiếp phôi phaLà anh của vạn đầu em nhỏKhông áo cơm, cù bất cù bơ…”

Bằng điệp cấu trúc “đã là/ là”, tác giả đã nêu lên một chân lí, khẳng định sự chuyển biến lớn trong tình cảm của mình và vị trí của trách nhiệm cá nhân đối với cộng đồng. Những danh từ: “con”, “em”, “anh” gợi ra mối quan hệ ruột thịt đối với “vạn nhà, vạn kiếp phôi pha, vạn đầu em nhỏ” thể hiện sự gắn bó máu thịt của tác giả đối với đông đảo quần chúng nhân dân. Câu thơ đã nêu cao trách nhiệm chia sẻ, dẫn dắt, định hướng đối với những kiếp người khốn khổ, với mầm non của đất nước. Qua đó, chúng ta có thể thấy được tình hữu ái giai cấp, lòng nhân ái và sự đoàn kết dân tộc giữa những con người cùng mang trong mình dòng máu Lạc Hồng. Như vậy, bằng tinh thần nhiệt huyết tuổi trẻ, Tố Hữu đã nêu cao chân lí của người chiến sĩ cách mạng, phải lo lắng, chăm lo đối với vận mệnh của nhân dân, dân tộc dưới ánh sáng soi chiếu của Đảng. Vì thế, bài thơ được xem là lời tuyên ngôn về lẽ sống đối với thanh niên Việt Nam qua nhiều thế hệ.

Bằng việc sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ, hệ thống ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhạc điệu, giọng thơ sảng khoái, hân hoan, tác giả Tố Hữu đã ngợi ca lí tưởng cách mạng của Đảng; đồng thời thể hiện lẽ sống lớn hòa nhập, cống hiến. Tất cả những yếu tố trên đã làm nổi bật tiếng thơ trữ tình – chính trị và phẩm chất cách mạng của nhà thơ Tố Hữu.

Cảm nhận bài Từ ấy – Mẫu 2

Đọc bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu ta không chỉ cảm nhận được niềm vui sướng, say mê của chàng trai trẻ trong buổi đầu gặp gỡ lý tưởng cách mạng. Mà hơn thế, ta nhận ra rằng, hóa ra chính là vào thời điểm “Từ ấy” mà cách mạng Việt Nam có thêm một chiến sĩ yêu nước, thi ca Việt Nam có thêm một nhà thơ của quần chúng nhân dân. Mỗi một khổ thơ là một giai đoạn trong quá trình chuyển biến tư tưởng, tình cảm của Tố Hữu, qua từng câu chữ, từng hình ảnh người đọc như đang được sẻ chia, cùng chung vui, cùng tâm nguyện với người thanh niên yêu nước này.

Mở đầu bài thơ là một lời tự sự như là giới thiệu của tác giả đối với người đọc về một sự kiện có ý nghĩa lớn lao trong cuộc đời mình:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạMặt trời chân lí chói qua tim”

Hai chữ “Từ ấy” khiến người đọc không khỏi băn khoăn, tò mò mà suy nghĩ xem “từ ấy” là từ khi nào? Từ bao giờ? Nhưng chỉ cần đọc hết câu thơ là chúng ta có thể đoán ra đó chính là thời điểm Tố Hữu được đứng trong hàng ngũ của Đảng, được trở thành một chiến sĩ cộng sản. “Từ ấy” là mốc thời gian vô cùng đặc biệt, giống như cột mốc đánh dấu trong chặng đường đời của tác giả. Ta có thể cảm nhận được sức mạnh, sự lan tỏa và giá trị của lý tưởng cộng sản qua những lời thơ so sánh, những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc như “nắng hạ”, “mặt trời chân lý”, “chói qua tim”.

Đối với Tố Hữu, chẳng có nguồn sáng nào sáng hơn lý tưởng cộng sản, ánh sáng ấy làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ, là ánh nắng của mặt trời chân lý. Mặt trời của đời thường chỉ tỏa ánh nắng, hơi ấm và sự sống còn mặt trời chân lý lại tỏa ra những tư tưởng đúng đắn, soi đường chỉ lối trong nhận thức con người. Lý tưởng cách mạng với Tố Hữu cũng lớn lao, rạng rỡ tựa ánh mặt trời, cũng giống như cây cối được tắm nắng, tâm hồn chàng trai trẻ đang bị mây mù bao phủ đã được xua tan bằng mặt trời của cách mạng.

Đọc thêm:  Trích đoạn cải lương: Vốn văn hóa quý phục vụ cơ sở - Báo Đồng Nai

“Hồn tôi là một vườn hoa láRất đậm hương và rộn tiếng chim”

Câu thơ đã mở ra một thế giới tràn đầy sự sống, tràn đầy hương sắc và âm thanh rộn rã. Nếu ánh nắng mặt trời mang đến sự sống, giúp cho cây cối sinh sôi phát triển thì ánh sáng cộng sản cũng đã “tưới” lên tâm hồn khô cằn của tác giả nguồn sức sống dạt dào, phong phú. Tâm hồn nhà thơ tràn ngập những cảm xúc hân hoan, vui sướng, đó tựa như khu vườn hoa lá tươi tốt đang phô ra tất cả nhựa sống căng tràn nhất “rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi nhàĐể tình trang trải với trăm nơiĐể hồn tôi với bao hồn khổGần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Những quan niệm về lẽ sống luôn có sự khác biệt giữa các giai cấp và giữa cá nhân từng người. Khi đã được giác ngộ lý tưởng, Tố Hữu đã không còn là một tiểu tư sản nữa mà đã hạ quyết tâm “buộc” bản thân mình vượt qua giới hạn cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người “Để tình trang trải khắp trăm nơi”. Lẽ sống đẹp trong nhận thức của nhà thơ chính là sự gắn bó hòa hợp giữa “cái tôi” cá nhân và “cái ta” chung, có như vậy mới tạo ra được sự đồng cảm, sẻ chia lẫn nhau giữa những con người.

Trong mối liên hệ với mọi người nói chung, Tố Hữu đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ, “khối đời” chính là khối người cùng chung cảnh ngộ cuộc đời cùng đoàn kết chặt chẽ và phấn đầu vì mục tiêu chung. Chẳng còn là Tố Hữu sống cho riêng mình mà chàng thanh niên này đã đặt mình giữa dòng đời, trong sự rộng lớn của quần chúng lao khổ, cũng chỉ có ở đây nhà thơ mới tìm thấy niềm vui, ý nghĩa cuộc đời bằng chính giao cảm của trái tim. Lý tưởng cộng sản đã giúp cho Tố Hữu vươn lên những tình cảm cá nhân để có được tình cảm hữu ái với quần chúng lao khổ, đó giống như tình thân giữa những người ruột thịt “là con”, “là anh”, “là em”.

“Tôi đã là con của vạn nhàLà em của vạn kiếp phôi phaLà anh của vạn đầu em nhỏKhông áo cơm cù bất cù bơ”.

Nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân trở thành thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ, từ đó bộc lộ sự căm giận trước bất công, trái ngang của cuộc đời người lao động, của những “kiếp phôi pha”, những em nhỏ “không áo cơm cù bất cù bơ”. Lấy đó làm động lực, Tố Hữu càng hăng say hoạt động cách mạng, quần chúng lao khổ chính là nguồn cảm hứng sáng tác chủ yếu của nhà thơ để rồi cho ra đời nhiều tác phẩm tiêu biểu như Lão đầy tớ, Một tiếng rao đêm, Tiếng hát sông Hương.

Có thể nhận định rằng, bài thơ Từ ấy của Tố Hữu chính là một bản tuyên ngôn về quan điểm và cảm hứng sáng tác trong cuộc đời sự nghiệp của Tố Hữu. Bài thơ như một lời thức tỉnh thế hệ trẻ phải có nhận thức về lí tưởng, tìm kiếm lí tưởng của mình để lấy đó làm lẽ sống, là mục đích của cuộc đời. Cuộc đời sẽ trở nên ý nghĩa nếu chúng ta có lí tưởng để hướng đến và phấn đấu, nỗ lực hết mình để thực hiện lí tưởng đó.

Cảm nhận Từ ấy – Mẫu 3

“Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng, một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi…”- mỗi khi nghe bài hát ấy cất lên từ tiếng radio, lòng tôi lại xúc động, bồi hồi nghĩ về nhà thơ Tố Hữu. Một con người suốt cuộc đời cách mạng, suốt cuộc đời thơ dành cho Đảng một tình thương với niềm tin yêu mãnh liệt. Những vần thơ ông viết về Đảng đều thật đẹp, thật đáng trân trọng và gìn giữ. Một trong số đó phải kể đến tác phẩm Từ ấy được tác giả viết vào năm 1938, trong buổi đầu giác ngộ lý tưởng Đảng.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạMặt trời chân lý chói qua tim”

Câu thơ đầu mở ra thời điểm, hoàn cảnh mà tác giả có những thay đổi trong nhận thức và tâm hồn mình. Trạng ngữ “từ ấy” được đặt đầu câu nhằm nhấn mạnh thời gian có ý nghĩa trọng đại với “tôi”, đó là vào năm 1938, tác giả được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện ấy đã mở ra trước mắt nhà thơ một cuộc đời mới, một hành trình cách mạng mới mà trên con đường ấy có lý tưởng của Đảng sáng soi. Ánh sáng cộng sản đã tác động mạnh mẽ đến nhân vật trữ tình khiến lòng “tôi” như “bừng nắng hạ”. Động từ “bừng” kết hợp với danh từ “nắng hạ” đã diễn tả nỗi rạo rực trong tâm hồn người chiến sĩ trẻ. “Nắng hạ” là cái nắng chói chang, rực rỡ và lâu bền nhất , “nắng hạ” là nắng trong tim của một tâm hồn đang rạo rực bùng cháy.

“Mặt trời chân lý chói qua tim”

Hình ảnh mặt trời vốn được dùng nhiều trong thi ca. Đó là mặt trời của mẹ- mặt trời bé con trong thơ Trần Đăng Khoa:

“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồiMặt trời của mẹ em nằm trên lưng”

Hay trong thơ Viễn phương cũng từng viết:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăngThấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Mặt trời là ẩn dụ cho những gì quý giá nhất, có sức sống lâu bền nhất trong mỗi người. Tố Hữu cũng không nằm ngoài lựa chọn đó, ông đã ví ánh sáng của Đảng như ánh mặt trời chân lý. Nếu Mặt trời của tự nhiên cho vạn vật sức sống, nó trường tồn theo thời gian không thể nào mất đi được thì ánh sáng của Đảng cũng như mặt trời kia, tồn tại lâu bền, trở thành chân lý bất biến, không ai có thể xóa nhòa, phủ nhận. Những lý tưởng đẹp đẽ, đúng đắn của Đảng đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn con người yêu nước “chói qua tim”. Tính từ mạnh “chói” được sử dụng đầy khéo léo như khẳng định ánh sáng mãnh liệt, chói lòa, rực rỡ của Đảng trên con đường cách mạng.

“Hồn tôi là một vườn hoa láRất đậm hương và rộn tiếng chim”

Lối so sánh ngang bằng “hồn tôi” và “vườn hoa lá” cho thấy những tình cảm dạt dào, sôi động trong tâm khảm thi nhân. Vườn hoa lá có sắc hương, có thanh âm tự nhiên, vườn hoa lá đang dạt dào sức sống cũng như tâm hồn người lính vậy. Đó là một tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, rạo rực, mê say, tin yêu Đảng, là tâm hồn đang khát khao tận hiến cho cuộc đời khi được lý tưởng Đảng soi đường, dẫn lối. Có lẽ, chính từ đầy, cuộc đời của tác giả sẽ bước sang một trang mới, đầy hy vọng và tươi sáng hơn.

Trí tuệ giác ngộ lý tưởng cách mạng, tâm hồn trở nên rộng mở hơn. Bây giờ, nó không còn là ý thức lo cho riêng cuộc đời mình nữa mà là sự gắn bó, gắn kết với mọi người, cho cuộc đời chung:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi nhàĐể tình trang trải với trăm nơiĐể hồn tôi với bao hồn khổ.Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Danh từ “tôi” đứng đầu câu kết hợp với động từ “buộc” như một sự chủ động kết sợi dây gắn bó của người chiến sĩ với nhân dân mình. Kể từ nay, mọi hành động, mọi việc làm của “tôi” đều gắn với lợi ích chung của mọi người, vì nhân dân, vì đất nước. Người cộng sản đã tự nhận thức được trách nhiệm, lẽ sống và sứ mệnh của mình trong cuộc đời làm cách mạng. Đó là mong muốn được thấu hiểu nhân dân mình, được chia sẻ với nỗi khổ đau, gian khó của nhân dân mình, để cùng nhân dân mình gắn bó, đoàn kết tạo nên sức mạnh bất diệt đánh tan quân thù, đem lại bình yên cho đất nước.

Khổ thơ cuối cất lên như lời khẳng định mang tính chân lý về vị trí và trách nhiệm và sứ mệnh của người chiến sĩ giữa cuộc đời:

“Tôi đã là con của vạn nhàLà em của vạn kiếp phôi phaLà anh của vạn đầu em nhỏKhông áo cơm cù bất cù bơ”

Một tình cảm gắn bó lâu bền và thắm thiết của người chiến sĩ với nhân dân toát lên trong từng vần thơ đẹp. Phép liệt kê cùng điệp từ “là” đã nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết của “tôi” với nhân dân mình. Đó là tinh thần sẵn sàng bảo vệ, giúp đỡ nhân dân, sẻ chia với những khổ cùng của nhân dân. Làm con, làm bạn, làm anh, làm em, làm chiến sĩ, dù ở bất kì cương vị nào đi nữa thì vẫn một lòng gắn bó với nhân dân, cùng nhân dân đương đầu khó khăn, vượt qua những sóng gió, quyết không lùi bước, dừng chân. Đó là một tinh thần thật đẹp, thật đáng quý, đáng yêu, là một tinh thần thép giữa cuộc đời. Cái tôi bây giờ không còn là một bản thể riêng rẽ nữa mà nó đang hòa trong cái ta chung, một cái tôi vì cộng đồng thật đáng ngưỡng mộ.

Bài thơ Từ ấy kết thúc như một tiếng reo vui của tác giả trong chặng đường đáng nhớ của cuộc đời. Đồng thời, đằng sau đó là nỗi thiết tha, tin yêu với Đảng, từng lời thơ mang cả tấm lòng ngợi ca ánh sáng của Đảng, của cách mạng. Ai đó từng nói rằng, một tác phẩm thành công không chỉ bộc lộ được những cảm xúc bên trong tâm hồn tác giả mà còn phải tác động đến tư tưởng, tình cảm, nhận thức trong lòng người đọc. Nếu xét theo những tiêu chí ấy, ta có thể khẳng định Từ ấy chính là một tác phẩm vô cùng thành công, đáng để bao thế hệ học tập và noi theo.

Cảm nhận về bài thơ Từ ấy – Mẫu 4

Khi nhắc đến nhà thơ trữ tình chính trị hàng đầu của thơ ca Việt Nam, hẳn ai cũng biết đến Tố Hữu. Ông là nhà văn lớn, nhà thơ lớn của dân tộc, là cây bút xuất sắc của cách mạng Việt Nam. Thơ ông biểu hiện về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của người cách mạng. Đặc biệt, thơ ông đi sâu khai thác đời sống chính trị của đất nước tới tâm tư, tình cảm, cuộc đời hoạt động cách mạng của bản thân. Một trong những bài thơ biểu hiện rõ nhất cuộc đời cách mạng của ông là bài thơ: Từ ấy.

“Từ ấy” là bài thơ rất hay, đặc biệt bởi đây là bài thơ đánh dấu cuộc đời hoạt động cách mạng của nhà thơ. Tháng 7 năm 1938, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Ghi nhận kỉ niệm đáng nhớ ấy với cảm xúc, suy tư sâu sắc Tố Hữu viết nên “Từ ấy”. Bài thơ nằm trong phần “Máu lửa” của tập “Từ ấy”. Bài thơ là lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng cộng sản. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạMặt trời chân lí chói qua tim”

Đó chính là giây phút ông nhận ra lẽ sống lớn, là giây phút “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Bắt gặp được lẽ sống, lí tưởng cách mạng soi sáng, chỉ đường, làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Với những hình ảnh ẩn dụ : nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim. Tố Hữu đã khẳng định một lí tưởng cách mạng: Đảng là mặt trời chân lí tỏa ra lẽ phải, sự đúng đắn, soi đường đưa cả dân tộc thoát khỏi ách nô lệ. Cũng như mặt trời của tự nhiên, tạo hóa tạo ra sức sống, ánh sáng, tỏa hơi ấm cho vạn vật. Bên cạnh đó, bằng cách sử dụng những động từ mạnh : bừng, chói. Tác giả muốn nhấn mạnh lên một điều rằng : ánh sáng cách mạng chính là ánh sáng chân lí, đã làm thức tỉnh lòng yêu nước nồng nàn trong lòng mỗi người con dân tộc Việt.

Đọc thêm:  Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động - Ngữ văn lớp 7

“Hồn tôi là một vườn hoa láRất đậm hương và rộn tiếng chim”

Chính giây phút bắt gặp lí tưởng cách mạng cũng là giây phút của hương thơm và ánh sáng. Tố Hữu đón nhận lí tưởng như cỏ cây, hoa lá, đón nhận ánh sáng mặt trời. Trong khi băn khoăn tìm kiếm lẽ đời, tác giả đã bắt gặp ánh sáng cách mạng. Được giác ngộ lí tưởng cao đẹp của Đảng, tác giả thêm tràn đầy sức sống, thêm yêu đời, thêm yêu người. Và nó cũng khiến tâm hồn nhà thơ thêm kiên định và thêm tràn đầy niềm tin với tâm trạng say sưa, náo nức, rộn ràng của một trái tim nhiệt huyết.

Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ dân tộc. Bằng cách sử dụng thể thơ thất ngôn, làm âm điệu trở nên trạng trọng. Cách ngắt nhịp trong bài tạo ra tính nhạc : Từ ấy / trong tôi / bừng nắng hạ… làm cho bài thơ thêm hay, thể hiện đúng tâm trạng của nhà thơ:

“Tôi buộc hồn tôi với mọi ngườiĐể tình trang trải với trăm nơiĐể hồn tôi với bao hồn khổGần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Khổ thơ thứ hai thể hiện rõ nhất cái tôi trữ tình. Là cái tôi mang giai cấp thời đại, đại diện cho dân tộc. “Tôi buộc hồn tôi với mọi người” chính là sự hài hòa giữa cái tôi và cái ta, giữa cá nhân và tập thể để từ đó mở lòng mình, đồng cảm với mọi người xung quanh. Từ đó tạo nên tính đoàn kết, sức mạnh tập thể. Đặc biệt là quần chúng nhân dân lao động cùng nắm tay đoàn kết lại thành một khối để vượt qua mọi khó khăn gian khổ.

“Tôi đã là con của vạn nhàLà em của vạn kiếp phôi phaLà anh của vạn đầu em nhỏKhông áo cơm cù bất cù bơ…”

Đoạn cuối cùng hiện lên như khẳng định, nhấn mạnh một tình cảm gia đình đầm ấm, thắm thiết. Đó chính là một đại gia đình lớn của quần chúng nhân dân lao động. Mà trong đó tác giả là con, là em, là anh của đại gia đình đó. Tấm lòng của tác giả đã hòa vào tấm lòng đại gia đình dân tộc. Thấu hiểu và chia sẻ tấm lòng đó biểu hiện thật xúc động và chân thành. Từ đấy, ta thấy được tấm lòng căm phẫn của nhà thơ trước cuộc đời ngang trái. Tác giả xót thương cho những số phận của “vạn kiếp phôi pha”, của những em nhỏ không có áo cơm, “cù bất cù bơ…”. Ông mở lòng đón nhận những kiếp người đau khổ, nhân dân cần lao như đón nhận một cách chân thành những người thân ruột thịt. Câu “Không áo cơm cù bất cù bơ…” để lại ba dấu chấm lửng như tấm lòng của tác giả trải rộng ra, mở lòng mình với bao hồn khổ. Bài thơ rất đặc biệt không chỉ về ý thơ mà còn cả về tứ thơ. Tác giả dùng thể thơ truyền thống, sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu làm nổi bật tâm trạng của nhà thơ.

Là lời tâm nguyện của chàng thanh niên yêu nước được giác ngộ lí tưởng cách mạng của Đảng và Bác Hồ. Đồng thời đó cũng là tâm nguyện gắn bó với nhân dân lao khổ. Và bài thơ cũng chính là mốc thời điểm mở đầu cho cuộc đời hoạt động cách mạng của Tố Hữu. Bằng lời thơ giàu cảm xúc, suy tư theo lí tưởng cách mạng. Đó chính là chất lãng mạn của thi ca Việt Nam.

Cảm nhận về bài thơ Từ ấy – Mẫu 5

Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, sự nghiệp và thơ ca của ông gắn liền với cách mạng. Thơ của ông gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ và hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi đầy vẻ vang. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Tố Hữu với những cảm nhận và suy tư sâu sắc.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ…Không áo cơm, cù bất cù bơ”

Bài thơ nằm trong phần máu lửa của tập Từ ấy được viết vào ngày mà Tố Hữu được đứng vào hàng ngũ của Đảng.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạMặt trời chân lí chói qua tim”.

“Từ ấy” là chỉ cái mốc thời gian đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và trong cuộc đời thơ Tố Hữu. Đó là khi Tố hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Huế. Được giác ngộ lý tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ông đã hoạt động cách mạng một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong.

Cụm từ “bừng nắng hạ” là biểu tượng cho cảm xúc của bài thơ. “Bừng nắng hạ” là bừng lên vui sướng hân hoan, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lý tỏa sáng cho cuộc đời của mình. Hình ảnh “mặt trời chân lí chói qua tim” là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lí tưởng cách mạng. Những từ ngữ được sử dụng chính xác, giàu sức gợi ở đây là từ “bừng” và từ “chói”. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ “chói” chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Vậy hình ảnh “bừng nắng hạ”, “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui đột ngột của nhà thơ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chân lí cách mạng là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính của nhà thơ đối với cách mạng. Từ “chói qua tim” là tác giả nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, của tư tưởng.

Hai câu thơ sau tác giả viết bằng bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh rất sinh động, giàu hình tượng để diễn tả niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu tiếp xúc với lí tưởng cộng sản:

“Hồn tôi là một vườn hoa láRất đậm hương và rộn tiếng chim”

Hình ảnh “vườn hoa lá” và “rộn tiếng chim” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một thế giới tươi sáng, rộn rã, tràn đầy sức sống. Nhà thơ so sánh hồn tôi như vườn hoa lá, một cách so sánh lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Để từ đó bạn đọc chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ khi đến với cách mạng. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Đó là nhà thơ say mê ca ngợi nhân dân, ca ngợi đất nước, say mê hoạt động cống hiến cho cách mạng. Như vậy, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niềm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ từ khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Những câu thơ trên được viết bằng cảm xúc dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấ tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mạng đương thời và trước đó. Xong cái hấp dẫn lớn nhất trong thơ Tố Hữu là con người chân thành, tâm hồn trong trẻo, nồng nhiệt đã tìm được một cách diễn đạt rất phù hợp.

Khi giác ngộ lí tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi ngườiĐể tình trang trải với muôn nơi”Để hồn tôi với bao hồn khổGần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Động từ “buộc” thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. “Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời” là tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một cảnh ngộ, cùng chung một lí tưởng, đoàn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc. Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội. Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lí tưởng của nhà thơ Tố Hữu.

“Tôi đã là con của vạn nhàLà em của vạn kiếp phôi phaLà anh của vạn đầu em nhỏKhông áo cơm, cù bất cù bơ”

Ở khổ thơ này, nhà thơ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động thể hiện trong quan hệ với các tầng lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó với “vạn nhà” (Tôi đã là con của vạn nhà: “vạn nhà” là một tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, “vạn kiếp phôi pha” là những người sống nghèo khổ, sa sút, vất vả, cơ cực, “vạn đầu em nhỏ” là những em bé lang thang vất vưởng nay đây mai đó). Tình cảm của tác gải thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp từ “đã là” là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi cá nhân, ích kỉ, hẹp hòi. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình để đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản.

Với cách sử dụng linh hoạt các bút pháp tự sự, trữ tình và lãng mạn, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ rồi sử dụng từ ngữ giàu tình cảm, giàu hình ảnh. Bài thơ đã thể hiện được một cách sâu sắc, tinh tế sự thay đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một thanh niên ưu tú khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng và được vinh dự đứng trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng. Bài thơ cũng thể hiện những nhận thức mới về lẽ sống, đó là lẽ sống gắn bó hài hòa giữa cái tôi riêng với cái ta chung của mọi người. Cũng như sự chuyển biến sâu sắc của nhà thơ, bài thơ cũng có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thơ ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn về lẽ sống của người chiến sĩ cách mạng và cũng là tuyên ngôn của nhà thơ chiến sĩ. Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, có sự kết hợp hài hòa giữa trữ tình và chính trị, sử dụng nhuần nhuyễn các thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca truyền thống nhưng giàu hình ảnh và giàu nhịp điệu lời thơ giản dị khiến nó dễ đi vào lòng người đọc.

Đọc thêm:  Bộ Đề Đọc-Hiểu Văn Bản Cổng Trường Mở Ra - Đề Số 2 - Hoc360.net

Cảm nhận về bài thơ Từ ấy – Mẫu 6

Tố Hữu – một tiếng thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của dòng Văn học cách mạng kháng chiến Việt Nam. Người đã thổi vào thơ ca cách mạng một luồng sinh khí nồng nàn – rạo rực hăm hở tâm huyết của người lính trẻ, với chất giọng đằm thắm chân thành ngọt ngào của người dân xứ Huế mộng mơ, thơ Tố Hữu dường như đã thấm đẫm chân lí của thời đại, chân lí giác ngộ cách mạng, khi bắt gặp lí tưởng Đảng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạMặt trời chân lí chói qua timHồn tôi là một vườn hoa láRất đậm hương và rộn tiếng chim

Từ ấy là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu (1937 – 1947). Đây là chặng đầu mười năm thơ Tố Hữu cũng là muôn năm hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của người thanh niên cách mạng trong một giai đoạn lịch sử sôi động đã diễn ra nhiều biến cố to lớn làm rung chuyển và thay đổi sâu sắc của xã hội Việt Nam.

Có thể nói với Từ ấy đã đánh dấu sự trưởng thành của hồn thơ Tố Hữu, đây là sự khẳng định lí tưởng của một chiến sĩ trẻ khi đã có Đảng dẫn lối soi đường.

Bài thơ này Tố Hữu đã bày tỏ cảm xúc mãnh liệt đột ngột, cảm xúc thực của một trái tim đang khao khát được giác ngộ, để đi theo chân lí của cách mạng, để tìm ra một hướng đi cho tương lai. Mở đầu bài thơ, tác giả đã dùng từ Từ ấy rất độc đáo – không hiểu là từ khi nào, thói quen không được xác định rõ ràng, cũng không phải là dạo ấy, dạo đó, hay là từ ngày đó… mà người chỉ dùng một cụm từ từ ấy, để diễn tả tâm trạng của mình khi bắt gặp lí tưởng cho cuộc đời. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ – là câu thơ như chợt tỉnh giấc sau một đêm dài mộng mị, của từ bừng câu thơ như trở nên có hồn hơn, chở đầy tâm trạng khi xao xuyến, khi thì rạo rực băn khoăn hớn hở. Tố Hữu đã rất tinh tế khi dùng câu thơ này để diễn tả một cái tôi bản ngã của một chàng thanh niên 19 tuổi đang băn khoăn đứng giữa cuộc đời: Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước – Chọn một dòng hay để nước trôi đi. Thì cùng lúc đó người đã giác ngộ lí tưởng cách mạng. Ánh sáng lí tưởng đã chiếu rọi vào tâm hồn trẻ làm bùng nổ một thế giới đầy hương sắc, tràn trề sức sống và niềm vui. Sự gặp gỡ lí tưởng đã dẫn đến sự đổi thay cơ bản mối quan hệ con người với toàn bộ thế giới, đem lại sự gắn bó ruột thịt với muôn người lao khổ để tạo thành sức mạnh to lớn của cách mạng. Sự gặp gỡ lí tưởng cũng đã tạo nên một cái tôi trữ tình kiểu mới trong thơ: Cái tôi tự ý thức sâu sắc về mình đồng thời là cái tôi gắn bó với muôn người, ở giữa mọi người. Cái tôi ấy đã hòa chung vào với cộng đồng khi đã thấy:

Mặt trời chân lí chói qua tim.

Mặt trời – là một biện pháp tu từ ẩn dụ, để chiếu ánh sáng lí tưởng cách mạng, mặt trời ấy có đủ sức mạnh và ánh sáng chân lí để soi rọi bao con người, bao chiến sĩ trẻ, bao thanh niên trí thức chưa được giác ngộ. Chỉ có mặt trời ấy mới đủ chân lí vĩnh cửu để soi rọi bao nẻo đường, chiếu sáng mọi ngóc ngách trong sâu thẳm của trái tim.

Niềm vui tràn trề của một tâm hồn hòa vào niềm hân hoan của cả một thế hệ thanh niên cách mạng cũng đã tạo nên một cảm xúc ngây ngất say mê, trong bài Hy vọng, Tố Hữu đã viết :

Ôi vui quá! Rộn ràng trên vạn nẻoBốn phương trời vào theo dấu muôn chânCũng như tôi, tất cả tuổi đương xuânChen bước nhẹ trong túi đầy ánh sáng.

Tố Hữu đã bộc lộ một cảm xúc, một niềm tin vào tương lai: Người thanh niên cách mạng tự cảm thấy:

Hồn tôi là một vườn hoa láRất đậm hương và rộn tiếng chim

Tâm hồn của cái tôi trữ tình lúc này đã được mở rộng, để đón nhận những chân lí tuyệt vời mà Đảng đã đem lại, những hương vị tuyệt vời của cuộc sống đang nô nức reo vui vào một niềm vui mới, niềm vui khi đã có Đảng dẫn đường. Tố Hữu đã dùng biện pháp so sánh vì hồn tôi lúc này như là một vườn hoa lá – lại có cả hương thơm và rộn rã tiếng chim. Hương vị ngọt ngào của cuộc đời thực đã phai màu trong suy nghĩ của người thanh niên cách mạng, niềm tin của người thanh niên cách mạng mặc dầu mang màu sắc lí tưởng hóa, nhưng lại rất chân thành và trong trẻo là tâm huyết mãnh liệt của người chiến sĩ trẻ.

Từ ấy đã thể hiện được bầu nhiệt huyết mãnh liệt của người chiến sĩ trẻ, của một cái tôi trữ tình buổi đầu nặng trĩu những ưu tư, ưu phiền của cuộc đời. Song đã bắt gặp được lí tưởng cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của con người đối với cuộc đời, của niềm tin vào một tương lai sáng huy hoàng, vào chân lí của cách mạng.

Cảm nhận bài thơ Từ ấy hay nhất – Mẫu 7

Chế Lan Viên từng nói “Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính… anh là con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp”. Không ai khác, Chế Lan Viên đang nói đến Tố Hữu – một nhà thơ của lí tưởng cộng sản, một nhà cách mạng yêu nước. Thơ ông luôn gắn liền với cách mạng, tiêu biểu là bài thơ Từ ấy trích tập thơ cùng tên được ông sáng tác năm 18 tuổi, năm ông ra nhập Đảng với niềm vui khôn xiết:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạMặt trời chân lí chói qua timHồn tôi là một vườn hoa láRất đậm hương và rộn tiếng chim

“Từ ấy” là tên bài thơ, là tên tập thơ cũng là thời điểm trong đời Tố Hữu. Những năm trước cách mạng là “những ngày bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước, chọn một dòng để nước trôi” nhưng vào năm 1938, gặp Đảng là lúc tìm được ánh sáng. “Từ ấy” không còn chỉ là thời điểm vô danh trôi chìm trong quên nhớ đời người mà đã trở thành thời khắc thiêng liêng không thể lãng quên phai nhạt. Vào thời khắc ấy, trong hồn thi sĩ “bừng nắng hạ”. Hình ảnh nắng hạ thật chói chang khác cái nắng nhợt nhạt của mùa xuân, cái nắng hanh của mùa thu. Những tia nắng hạ làm lá thêm xanh, hoa thêm ngát, trái thêm ngọt, đất trời thêm cao. Không những vậy, “nắng hạ” trong bài thơ cho ta nguồn sáng rất ấm, rất tươi của tinh thần, của linh hồn. Nó làm “bừng” sáng tâm hồn, bừng lên niềm vui, bừng dậy cả nguồn sống, bừng thức cả một miền kí ức thật đẹp đẽ. Ánh sáng ấy chỉ có thể là của mặt trời, đó là sự sống, hơi ấm bao la bất biến của vũ trụ. Đó là ánh sáng của “mặt trời chân lí” là ánh sáng của Đảng.

Niềm vui ấy không hề dừng lại, mà ngày càng tăng lên với các hình ảnh “vườn hoa lá”, “tiếng chim ca”,… mở ra cho người đọc đó là khu vườn xuân tươi mới tràn ngập sắc xanh của cây, hương thơm của hoa và những tiếng chim hót ríu rít tràn đầy sức sống. Vẻ đẹp tâm hồn, niềm vui của tác giả đã thoát khỏi ước lệ tượng trưng, nó tươi sáng trẻ trung có chút bồng bột say mê của chàng trai xanh tuổi trẻ lòng. Câu thơ với kiểu định nghĩa rất mới mẻ viết bằng cảm xúc dạt dào mãnh liệt với các hình ảnh rất cụ thể khiến cho ta cảm nhận được niềm vui và say mê khi tác giả được kết nạp đảng.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho ta cảm nhận được niềm vui, sự say mê của tác giả thì đến khổ hai chính là những nhận thức mới về lí lẽ sống:

Tôi buộc lòng tôi với mọi ngườiĐể tình trang trải với muôn nơiĐể hồn tôi với bao hồn khổGần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Khổ thơ với điệp ngữ kết hợp với nhịp thơ nhanh, trôi chảy, hơi thở liền mạch, giọng thơ sôi nổi thiết tha tràn đầy nhiệt tình nhiệt huyết.

Việc sử dụng động từ “buộc” thể hiện một lòng tự nguyện chan hòa lòng mình cùng mọi người, tác giả dường như muốn mình trải lòng cùng quần chúng nhân dân cần lao của bao kiếp người đau khổ. Đó là những trẻ em bán dạo, người ở, đầy tờ, những người nông dân khổ cực sớm hôm,… Tố Hữu với mong muốn đồng cảm, xót thương đoàn kết với những người dân ngoài kia mà mở hồn “trang trải” với “khối đời”. Có lẽ đó là một lẽ sống lớn, tình cảm lớn với mọi người.

Tiếp tục mạch cảm xúc là những biến chuyển trong tâm hồn thi sĩ và mong muốn tột cùng hòa mình với đời:

Ta đã là con của vạn nhàLà em của vạn kiếp phôi phaLà anh của vạn đầu em nhỏKhông áo cơm, cù bất cù bơ

Khổ thơ cuối là sự xuất hiện của tập thể với các cụm từ chỉ số lượng lớn “vạn nhà”, “vạn kiếp”, “vạn đầu” và đại từ “ta”, tác giả một lần nữa khẳng định tình cảm gắn bó của mình với mọi người, những người sống nghèo khổ, tuổi cao nhưng còn gánh nhiều nỗi cơ cực, những trẻ em thời ấy không có cơm ăn áo mặc, lang thang không nhà và tất cả mọi người trên thế gian này. Đây là bước chuyển từ cái tôi sang cái ta rõ rệt nhất, tình cảm thay đổi cũng bắt nguồn từ nhận thức về lẽ sống, nó ập đến trong lòng tác giả như một mối duyên, có thể nói là mối duyên giữa thi sĩ và ánh sáng chân lí của đảng. Đặt tác phẩm vào thời đại và bối cảnh bấy giờ năm 1938, thời điểm mà các nhà trí thức tiểu tư sản đang đề cao cái tôi cá nhân thì Tố Hữu đã có thể buông bỏ cái tôi để hòa mình cùng cái ta của thế gian. Điều này cho thấy sức mạnh to lớn của lí tưởng cách mạng đã cảm hóa con người, soi sáng đường đi cho họ, hướng họ về phía mặt trời.

Với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn, và chất trữ tình chính trị sâu sắc, thơ Tố Hữu đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho những thế hệ thanh niên yêu nước. Và bài thơ Từ ấy của ông truyền cho ta ngọn lửa, nhiệt huyết và khát vọng tuổi trẻ lớn lao.

Đánh giá bài viết

Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!

Dustin Đỗ

Tôi là Dustin Đỗ, tốt nghiệp trường ĐH Harvard. Hiện tôi là quản trị viên cho website: www.hql-neu.edu.vn. Hi vọng mọi kiến thức chuyên sâu của tôi có thể giúp các bạn trong quá trình học tập!!!

Related Articles

Back to top button