Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (20 Mẫu hay nhất)
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử tổng hợp 16 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết và sơ đồ tư duy. Với 16 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ mà Manta.edu.vn giới thiệu sẽ giúp các bạn học sinh lớp 11 tự tin không phải băn khoăn quá nhiều về cách viết bài văn hay, ấn tượng nhất.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của một bức tranh xứ Huế cổ kính trầm mặc mà rất trang nhã, quý phái. Nó gợi cái hồn của cố đô, nhưng không thể cho rằng bài thơ chỉ tả cảnh đơn thuần. Thơ đã làm ta yêu đời hơn. Như vậy trên đây là TOP 16 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất , mời các bạn cùng theo dõi sau đây.
Lập dàn ý Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
I. Giới thiệu
Về tác giả và tác phẩm:
Hàn Mặc Tử có lẽ là cái tên không ai có thể quên khi nói đến phong trào thơ mới. Một trong những bài thơ mang dấu ấn sâu sắc nhất của nhà thơ, để lại nhiều cảm hứng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc, đó là bài thơ “Làng này hay lắm”. Đoạn thơ như một bức thư bộc lộ những nỗi niềm thầm kín và khát khao cháy bỏng của nhà thơ
II. Thân bài:
1. Phân tích khổ thơ đầu:
– Đoạn thơ mở đầu và một câu hỏi “sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
– Tôi có cảm giác đây là một lời trách móc tình yêu của một cô gái, trong đó ẩn chứa sự hờn dỗi và nhớ nhung.
– Thực ra không có người con gái nào đối diện trực diện với Hàn Mặc Tử nên có lẽ lời trách móc tình yêu này là từ tranh và chữ, nó lay động, nó sống dậy. Trong lòng nhà thơ, hướng lòng nhà thơ về quê hương xứ Huế thân yêu ngày sau câu thơ thứ hai làm ta ngạc nhiên vì ngay lập tức cảnh thiên nhiên xứ Huế, cảnh thôn Vĩ Dạ được mở ra.
– Rõ ràng câu hỏi được đặt ra, trước mắt nhà thơ là không gian của Đây thôn Vĩ Dạ. Đây chắc chắn là một cuộc hành trình trong tâm trí.
– Mặt trời hiện ra trong sự quan sát của nhà thơ, một mặt trời hiện ra trong sự tinh khiết và tươi mát, nó không phải là cái nắng chói chang của mùa hè cũng không phải là cái nắng dịu dàng của mùa thu mà đó là “nắng vàng”. mới lên” có nghĩa là mặt trời của bình minh
– Đoạn thơ có hai từ nắng làm cho không gian như tràn ngập ánh sáng, không có từ ngữ nào để diễn tả màu sắc nhưng ánh nắng hiện ra trong trẻo và tinh khiết biết bao.
– Điểm nhìn của Hàn Mặc Tử dường như là từ trên cao nhìn xuống từ xa và gần, đôi mắt Hàn Mặc Tử trong cuộc hành trình như xé bầu trời để nhìn bình minh và ánh nắng huyền ảo thắp lên từ núi rừng. những ngọn cau cao vút, để có tầm nhìn bao quát màu xanh bao phủ khu vườn
– “Vườn ai xanh như ngọc” câu thơ là một câu cảm thán thốt lên trước vẻ đẹp của khu vườn
– Tính từ lướt ra hình ảnh so sánh xanh như ngọc cho thấy vẻ đẹp tuyệt vời của vườn thôn Vĩ
– Đoạn thơ không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn gợi cảm giác khi chạm vào những chiếc lá xanh mượt, đó là một trong những đặc điểm của các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng của thơ ca. tiêu biểu cho chủ nghĩa siêu thực Pháp khi cảm nhận sự vật bằng nhiều giác quan.
– Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” là một hình ảnh so sánh độc đáo, màu xanh của màu xanh được so sánh với màu xanh ngọc cho ta cảm giác thật dễ chịu trong lành, vạn vật đều tươi tốt. Tươi sáng và tràn đầy sức sống
– Ở câu thơ thứ tư hình ảnh con người mới xuất hiện “Lá tre che mặt chữ điền”.
– Khổ thơ cuối khổ thơ đầu là một câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của cô gái mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Bởi vì “vườn ai” là vườn của tôi, nên nhìn thấy mặt tôi trong khu vườn đó cũng hợp lý.
– Nhưng cũng có người cho rằng, chính tác giả trong cuộc hành hương của tư tưởng Hàn Mặc Tử đã gặp mình với một khuôn mặt có nét chữ khi còn là một bậc danh nhân tài hoa ở Huế.
– Xem ra, nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong sáng, thanh thoát, say đắm thì phải trở về với con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình trong thời gian ở Huế. Nói đúng ra, nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu.
– Hình ảnh “lá trúc che ngang” mang đến cho mặt chữ ấy nét hiên ngang, phóng khoáng của đấng nam nhi bởi lá tre trong quan niệm xưa là biểu hiện của người quân tử.
2. Phân tích khổ thơ thứ hai:
– Bốn câu thơ thứ hai đượm buồn như vẽ ra trước mắt ta một khung cảnh quê hương xứ Huế chiều tối với những gam màu trầm mặc, mỗi câu thơ gợi lên những hình ảnh lấp đầy bức tranh phong cảnh mà nếu nhìn kỹ, nếu ta nhìn kỹ thì chúng ta sẽ thấy những nghịch lý và những điều phi tự nhiên ẩn chứa trong mỗi sự vật
– “Gió theo lối gió mây đường mây”, câu thơ có lẽ không chỉ là nghịch lý mà còn chứa đựng cả sự trớ trêu, chưa chia lìa đã đành.
– “Nước buồn hoa ngô đồng lay động”, theo lẽ thường gió thổi làm hoa ngô đồng thì sóng nước cũng phải theo đó mà lay động, nhưng nước thì vẫn đứng yên, như một đôi uyên ương trong nước. . Gần nhau mà không thể đồng điệu, trong gần có mùi biệt ly
– Phải chăng đây là nỗi niềm của nhà thơ trước sự xa cách và hoài niệm, đồng thời đây cũng là nỗi niềm mặc cảm của những cố nhân trong cuộc đời. Nỗi buồn chia tay đọng lại trong lòng người một chút gì đó bùi ngùi, bâng khuâng.
– Nếu như ở khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu đẹp đẽ sắp chớm nở thì đến khổ thơ thứ hai ta lại bắt gặp một mối tình đã tan vỡ.
– Có lẽ, qua cách nói, hình ảnh Hàn Mặc Tử đã cay đắng từ chối người mời mình về thăm thôn Vĩ. “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?”
– Hình ảnh trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện nhiều. Vầng trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Khát khao hạnh phúc, hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, người chở trăng.
– Tác giả đã gửi gắm niềm thương nhớ, nhớ nhung, nhớ nhung đến thuyền trăng, đến cả dòng sông trăng.
– Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng tròn của thi nhân trước tình yêu không thể pha loãng.
– Câu hỏi làm nhịp thơ chậm lại, thể hiện sự lo âu trước một số phận không có tương lai.
– Hàn Mặc Tử hiểu ra bệnh tình của mình nên mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của đời người, vầng trăng không về đúng lúc và Hàn Mặc Tử không chờ đợi vầng trăng hạnh phúc ấy nữa, một năm sau anh từ biệt cõi đời.
3. Phân tích khổ thơ thứ ba:
– Nhà thơ buồn cho số phận ngắn ngủi, cho ước mơ còn dang dở nhưng rồi người nghệ sĩ vẫn tiếp tục sống trong khát vọng của mình.
– Hình ảnh “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần đã thể hiện phần nào nỗi nhớ nhung, nhớ nhung của tác giả đối với người mình yêu.
– Màu áo trắng cũng là màu nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào, tác giả choáng ngợp, ngây ngất trước sự hồn nhiên, trong sáng, cao thượng của người yêu.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh / Ai biết tình ai có đậm đà?”.
– Đoạn thơ tả cảnh thực Huế – kinh thành khói lửa. Trong sương khói ấy hình như con người cũng phai nhạt và có lẽ tình người cũng phai nhạt
– Câu hỏi tu từ cuối cùng bật ra như một tiếng nói thiết tha, chất vấn qua trái tim khao khát yêu đương nhưng gặp quá nhiều khó khăn, trắc trở.
– Hai đại từ “ai” trong câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: Không biết em có hiểu được tình riêng có giàu có hay không? Tôi không biết bản thân anh ấy có biết tình yêu của chính mình mạnh mẽ đến mức nào không? Anh có biết tình yêu của em mạnh mẽ không? Anh có biết tình yêu của em mạnh mẽ không?
– Một câu hỏi trong thơ, nhưng đằng sau nó ẩn chứa biết bao câu hỏi, càng hỏi càng thấy “mờ”, càng thấy tuyệt vọng.
– Tình yêu giàu có với Hàn Mặc Tử càng tha thiết bao nhiêu thì tình yêu càng tan vỡ một cách tuyệt vọng bấy nhiêu. Vì vậy, cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” là cảm hứng đau đớn của một tình yêu tuyệt vọng.
III. Kết thúc:
Mọi tuyệt vọng đều làm ta bi quan, nhưng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử đánh thức trong ta ánh sáng của khát khao mãnh liệt. Chính tình yêu thương đó đã tiếp thêm nghị lực cho nhà thơ trong hoàn cảnh khó khăn trong những giờ phút đau đớn chống chọi với bệnh tật. Cũng chính giá trị nhân văn ấy đã khẳng định tên tuổi Hàn Mặc Tử trên bầu trời thơ ca Việt Nam và giúp thơ ca mãi xanh tươi trong lòng bao thế hệ bạn đọc.
Sơ đồ tư duy phân tích Đây thôn Vĩ Dạ
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ học trò giỏi – Văn mẫu 1
Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một trong những cái tên nổi bật với phong cách thơ đặc biệt vừa trẻ trung, lãng mạn vừa buồn đau, tất cả xuất phát từ một cuộc đời có quá nhiều đau thương, cay đắng. của một nghệ sĩ trẻ. Đây Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những sáng tác tiêu biểu, nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào thơ Mới. Đoạn thơ mang đậm dấu ấn của tác giả khi hàm chứa những nội dung trong sáng, vô vàn, bộc lộ tình yêu thiên nhiên, tình yêu tha thiết với cuộc sống, đồng thời bộc lộ những ám ảnh, tiếc nuối của tác giả trước số phận nghiệt ngã của chính mình qua những vần thơ lạ lẫm, phức tạp đan xen giữa thực và những cảnh trong mơ.
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng lại có cuộc đời đầy bất hạnh cay đắng, khi còn trẻ ông không may mắc phải căn bệnh phong quái ác, đúng vào lúc sự nghiệp của ông đang ở giai đoạn thăng hoa nhất, đặc biệt là đường tình duyên. Hàn Mặc Tử cũng là một người kém may mắn khi phải chịu nhiều đau đớn, dằn vặt. Trong giai đoạn cuối đời, ông về Quy Nhơn chữa bệnh, bất ngờ nhận được tấm bưu ảnh có hình phong cảnh xứ Huế, trên đó có dòng chữ Kim Cúc, người con gái mà Hàn Mặc đem lòng yêu. Cái chết thường bỏ lỡ. Chỉ thế thôi đã khơi dậy trong trái tim cô đơn của người nghệ sĩ những cảm xúc hân hoan vui sướng, lòng ông trào dâng cảm xúc nhớ Huế, nhớ một Huế đẹp, đồng thời thổ lộ nỗi lòng. khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc đến tột độ qua những câu thơ đầu rất trong sáng, trong trẻo.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi mở rất dễ thương đậm chất Huế “Sao em không về chơi thôn Vĩ?”, có thể là lời than thở vu vơ của một cô gái đang mong chờ người yêu về thăm. Huế mãi mãi. , đến thăm để thỏa nỗi nhớ nhung, sau đó cũng có thể là lời mời thân tình của một người bạn phương xa, muốn tác giả một lần trở lại Huế, thăm lại cố đô yên bình. Để rồi, sâu thẳm trong câu hỏi bỏ ngỏ ấy, ta dường như cũng nhìn thấu nỗi lòng của tác giả, phải chăng Hàn Mặc Tử cũng đang tự hỏi lòng mình tại sao không trở về quê cũ, bày tỏ sự bất lực trước bệnh tật, trước hoàn cảnh của cuộc đời? tai ương của chính mình.
Trong dòng hồi tưởng, thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử hiện lên với hình ảnh đặc trưng, đó là những khu vườn với hàng cau thẳng tắp đón nắng. Hình ảnh “hàng cau tỏa nắng” là hình ảnh đặc sắc, khái quát và ấn tượng. “Tay cau” có nghĩa là nắng sớm, mặt trời đã lên khá cao, ở mức ấm nhất, chưa oi bức như mặt trời. không bật. Giữa khung cảnh ấy, ánh nắng bao trùm không gian, phủ lên những ngọn cau xanh mướt một màu vàng nhạt, mở ra một không gian trong trẻo, tràn đầy sức sống cũng như sự yên bình, tĩnh lặng nơi làng quê. “Vườn ai xanh như ngọc”, điệp từ “vườn ai” đã mang đến cho bức tranh thiên nhiên sự ấm áp của tình người, bên cạnh hơi ấm của nắng sớm, cảnh vật càng trở nên hài hòa hơn khi có sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên .
Những tính từ “mượt mà”, “xanh như ngọc” đều là nét vẽ tài tình, tinh tế của Hàn Mặc Tử khi nhớ về Đây thôn Vĩ Dạ đã khéo léo mở ra bức tranh thiên nhiên dịu dàng. , sinh động, trong trẻo, tinh khiết và tràn đầy sức sống. Chính sự non tươi béo ngậy của lá cây, cái mát lành của những giọt sương mai còn đọng lại sau một đêm dài, nhưng dưới ánh mặt trời ấm áp chúng lại tỏa sáng đẹp đẽ như những viên ngọc quý, khiến người ta không khỏi ngỡ ngàng. Đến câu thơ cuối, phong cách thơ Trung Hoa đã thực sự làm rõ và tô đậm vẻ đẹp của con người xứ Huế trong bức tranh đồng quê “Lá tre che mặt chữ điền” lấy tiểu cảnh, cắt ngang làm cảnh. lá trúc để làm nổi bật gương mặt người phụ nữ đảm đang, nhân hậu, dịu dàng và thông minh, đó cũng có thể là bóng hình mà Hàn Mặc Tử thường nhớ nhung, một con người mang nét đẹp cổ kính. cuốn sách có giá trị và tâm hồn, đại diện cho một vùng đất với những con người thân thương mà tác giả ngày đêm mong chờ.
Nếu như ở khổ thơ đầu, Hàn Mặc Tử nhìn cuộc sống và con người với tinh thần tích cực, lạc quan, tràn đầy hi vọng với bức tranh thiên nhiên tươi sáng, trong trẻo, thì ở khổ thơ tiếp theo, mạch cảm xúc lại được mở rộng. Cảm xúc của tác giả thay đổi nhanh chóng với sự thay đổi giữa ngày và đêm, giữa hai bức tranh thiên nhiên hoàn toàn khác biệt với những gam màu mới.
“Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?”
Từ một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, với những gam màu ấm áp, mát mẻ, giản dị, Hàn Mặc Tử lập tức chuyển sang cảnh đêm tối với hình ảnh dòng sông thăm thẳm lạnh lùng thể hiện sự trống vắng. Nỗi cô đơn đang len lỏi trong lòng tác giả. Hình ảnh “Gió cuốn theo gió mây cuốn mây đi” là một hình ảnh buồn, lạc lõng, gợi sự chia ly, tan rã không hẹn ngày gặp lại. Rõ ràng gió và mây là hai thực thể luôn gắn bó, gió thổi mây đi, tưởng như dính với nhau như hình với bóng, vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử gió và mây lại tách biệt. , hai nơi dường như không thể tách rời. ít tiếp xúc. Phải chăng đây là một ẩn ý cho mối tình của anh với Kim Cúc, hai người nay như cách biệt nhau, mai là âm dương cách biệt. Rồi cảnh mây gió ấy cũng gợi cho tác giả mối liên hệ với thế giới, dường như lúc này ông cũng bắt đầu cảm thấy mình không còn bao nhiêu thời gian nữa, như thể cuộc đời là dành cho ông vậy. ngày càng xa, cuộc sống trần gian của anh ta có thể không còn bao lâu nữa. Chính những suy nghĩ và thực tại đã giày vò trái tim Hàn Mặc Tử mới vừa được thắp lên niềm hy vọng. Một lá bài khiến anh hạnh phúc, tưởng chừng như anh đã thoát khỏi sự u ám, tăm tối của cuộc đời, nhưng nó vẫn không thể chiến thắng được sự nghiệt ngã của số phận và chính anh buộc phải tỉnh ngộ, trở về. với thực tế đau lòng.
Đến câu thơ tiếp theo “Nước buồn hoa rụng”, đúng với câu “Cảnh buồn bao giờ vui” của Nguyễn Du, trước nỗi buồn của số phận, Hàn Mặc Tử nghĩ về dòng sông Hương hiền hòa, Đã đi qua bao thăng trầm của lịch sử, dường như anh nhìn thấy dòng nước ấy cũng như hiểu được nỗi buồn của mình, buồn lặng lẽ, một nỗi buồn âm thầm không thể bày tỏ cùng ai, lẻ loi, lạc lõng không một bóng người. người chọn bạn. Hình ảnh “hoa ngô đẻ” là một hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt, bông ngô là loài hoa không màu, không hương, thoang thoảng, chóng héo. Dường như đó là hình ảnh của Hàn Mặc Tử về cuối đời, chỉ héo úa mặc cho gió đung đưa mà không thể chống lại số phận khiến người ta xót xa cho cuộc đời nghệ sĩ. số phận, cũng như nỗi đau mà ông phải chịu đựng suốt cuộc đời.
Trong lúc buồn bã, tuyệt vọng và cô đơn nhất, Hàn Mặc Tử lại nhớ đến vầng trăng, người bạn tri kỷ duy nhất có thể tâm sự và thấu hiểu mình. Cảnh bến thuyền, ánh trăng vằng vặc là một trong những hình ảnh thường xuất hiện trong thơ ca cổ điển, tả cảnh dòng sông yên ả, phẳng lặng, có phần cô quạnh. Đến thơ Hàn Mặc Tử, khung cảnh ấy còn độc đáo và sáng tạo hơn với câu hỏi “Thuyền ai cập bến sông trăng kia/ Có chở trăng về kịp đêm nay?”, một câu hỏi đầy tâm tình, trung dung. của một cảnh sông nước. nước mênh mông, ánh trăng trải dài trên mặt nước, có con thuyền nằm lặng lẽ, thật nên thơ và trữ tình biết bao. Lòng Hàn Mặc Tử chẳng mấy bình yên, người vội hỏi thuyền ai neo đậu, kẻ vội hỏi có đưa trăng về kịp, đưa tri kỷ về có kịp. Dường như ta thấy Hàn Mặc Tử vội vàng, lo lắng, đầy hoang mang, sợ rằng mình không còn bao nhiêu thời gian, không còn đợi được ánh trăng rọi vào lòng. Càng đọc, càng hiểu sâu nỗi lòng nhà thơ, càng biết nỗi ưu tư, cô đơn, bất lực của ông, càng thấy xót xa cho một kiếp người đau thương, khi cả tình yêu và cuộc đời đang nằm trước mặt. ngoài tầm với. Tất cả nỗi đau trong bài thơ và nỗi tuyệt vọng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử đều bộc lộ rõ nét tâm hồn khao khát sống, khao khát yêu thương dù trong lòng tác giả đã nhiều lần buông xuôi. , chấp nhận số phận, nhưng chỉ cần một chút niềm tin, trái tim ấy lại rạo rực và hạnh phúc hơn bao giờ hết. Mặc dù mọi thứ giống như một pháo hoa rực rỡ và đẹp đẽ, nó nở rộ và nhanh chóng tàn lụi.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà”
Từ cõi thực, Hàn Mặc Tử tiến vào cõi mộng, thể hiện rõ nét thơ ông phức tạp, khó hiểu nhất trong làng thơ Việt Nam đương đại. “Giấc khách phương xa, khách phương xa”, cũng là một câu thơ mơ hồ, không rõ ràng, “lữ khách phương xa” được lặp lại hai lần, như nhấn mạnh thêm diện mạo của nhân vật này, nhưng lại càng nổi bật hơn. thậm chí còn mơ hồ hơn. Vị khách ấy đến từ trong mơ, không rõ mặt, không rõ mặt, chỉ biết họ ngày càng xa dần, không bao giờ trở lại, ám chỉ sự vô vọng của Hàn Mặc Tử trong tình yêu dành cho Kim Cúc. Huế, cũng như sự tồn tại của anh trên cõi đời ngày càng trở nên mong manh và mờ mịt. Tác giả đã xa nhân gian, dần trở thành khách lạ, đi một chặng đường ngắn chừng 28 năm rồi ra đi không tiếng động, không màu sắc, sự liên tưởng khiến người ta vừa ám ảnh vừa xót xa. cho cuộc đời nhà thơ.
Đến câu thơ tiếp theo “Áo em trắng nhìn không thấy” là hình bóng thấp thoáng của người con gái anh yêu trong tiềm thức, cho thấy khoảng cách ngày càng xa giữa anh và nàng, đó không chỉ là khoảng cách địa lý. lý trí, mà còn là khoảng cách tinh thần, sự ngăn cách không thể thay đổi giữa sinh và tử. Chính những khoảng cách ấy đã khiến Hàn Mặc Tử ngày càng tuyệt vọng, hình bóng người con gái năm xưa ngày càng nhòe đi, anh không nhìn rõ, không thể chạm vào, muốn mà không thể chạm vào. Để giải thích cho sự mờ mịt, mông lung của nhân vật “em”, tác giả viết “Ở đây sương khói”, để giảm bớt khoảng cách, dựa vào nguyên nhân xứ Huế sương mù khiến anh không nhìn rõ mà nhấn mạnh sự mông lung, sự bế tắc, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử trước cuộc đời, khi chính đôi tay mình không thể vén màn sương tìm bóng hình tình yêu. bị thương, không chống nổi số mệnh không chịu chết.
Nỗi đau đớn, mặc cảm của số phận đã khiến tác giả không thể mở lòng mình để hiểu được nỗi lòng của Kim Cúc, cũng như không thể bứt mình ra khỏi những mộng tưởng dày đặc, trước hoàn cảnh đó ông chỉ có thể thốt lên “Biết đâu tình người giàu sang”. , nó như một lời nhắn gửi cho người con gái xa xứ rằng liệu nàng có còn nhớ đến chàng trai đáng thương này không, đồng thời cũng là một lời trách móc đau đớn khi trái tim chàng đã sợ hãi chàng Kim. Cúc đã không còn hứng thú với phần tình cảm này từ lâu. Cuối cùng, đó vẫn có thể là một thông điệp tình yêu anh muốn gửi một cách thật tế nhị và kín đáo vì anh biết mình không còn sống được bao lâu với cô gái Huế, anh muốn cô biết tình cảm của mình, và cũng muốn cô không để. Biết đâu, sự phức tạp và mâu thuẫn đó là do một tâm hồn mang quá nhiều vết thương, đồng thời đang tiến dần đến những ngày cuối cùng của cuộc đời trần thế, chính vì thế không thể quá tin tưởng, hay gieo rắc hy vọng, yêu thương cho một ai khác. Thà rằng một mình ôm lấy nỗi đau, tình yêu tuyệt vọng ấy trong suốt quãng đời ngắn ngủi còn lại.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu và đặc sắc nhất trong đời thơ Hàn Mặc Tử khi chứa đựng đầy đủ phong cách sáng tác của ông, đồng thời nội dung thơ ấn tượng với nhiều cảm xúc phong phú. thể hiện trong tranh thiên nhiên từ sáng sớm đến chiều tối, từ cảnh thực đến cảnh mộng. Bộc lộ tài năng sáng tạo, cũng như một tâm hồn dù phải chịu nhiều đau thương, bất hạnh nhưng Hàn Mặc Tử vẫn vẹn nguyên niềm yêu đời, khát khao hạnh phúc, yêu thương bình dị. kỳ lạ, mặc dù điều đó đối với nghệ sĩ là quá xa vời.
Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11 – Văn mẫu 2
Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút “tài hoa” nhất của phong trào thơ mới những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, tác phẩm để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc có lẽ là “Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của ông. Bài thơ là một bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong lành, thuần khiết của xứ Huế với bức tranh của một cái tôi yêu đời, khao khát đồng cảm với cuộc đời và con người nhưng đầy lo toan, trăn trở. trở lại.
Câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như một lời quở trách nhẹ nhàng và như một lời mời tha thiết của người con gái Huế. Một lời trách móc nhẹ nhàng, nhưng đằng sau đó là một lời mời đầy ân cần và chân thành: “Sao anh không vào chơi”. Ở đây, tác giả không dùng từ “thăm” mà dùng từ “chơi” đủ thấy sự thân tình, chân chất, giản dị, gợi cảm giác thân thiết, gần gũi. Và hình như, đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ đang tự vấn, tự trách mình sao đã quá lâu không trở về chốn xưa, để người xưa nay chỉ còn lại những nuối tiếc, trăn trở trong cơn bạo bệnh. . Đoạn thơ chất chứa bao niềm khao khát được trở về Vĩ Dạ thân yêu.
Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt người đọc qua từng câu chữ thơ, một bức tranh Vĩ Dạ lung linh, tươi đẹp và tràn đầy sức sống:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Cau là loài cây dân dã cũng là linh hồn của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, miếng trầu gắn liền với tình yêu đôi lứa. Trong thơ Hàn Mặc Tử, câu văn gắn liền với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh “hàng cau tỏa nắng” là một hình ảnh đẹp gợi sự tinh khiết, trong trẻo của những tia nắng ban mai. Màu của cây cau là một màu rất mới mà trước Hàn Mặc Tử chưa nhà thơ nào có thể gợi ra được. Những giàn cau được bao phủ bởi nắng mới, nắng hòa với những giọt sương đọng trên lá tạo nên vẻ lung linh, duyên dáng. Thiên nhiên trở nên thanh thản, trong trẻo lạ thường, không gian trở nên cao ráo, rộng rãi. Ánh nắng của những cây cau làm bừng sáng cả một khu vườn thơ mộng và hữu tình.
Xa xa là bóng cây cau, khi lại gần khu vườn càng đẹp và tươi mát hơn. Có cây khen xanh tươi, xanh trong, xanh mượt, xanh mướt:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ như sự ngỡ ngàng của tác giả trước vẻ đẹp của tạo hóa được tưới mát bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. Tính từ “mượt” gợi màu xanh, ngọc bích, sắc xuân đầy sức sống của khu vườn. Có thể thấy qua những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà bằng cách sử dụng từ ngữ độc đáo đã gợi lên bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp, sinh động và cao quý.
Cảnh thôn Vĩ càng trở nên hài hòa với dáng người:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Cách nói cách điệu thể hiện vẻ đẹp e lệ, kín đáo, dịu dàng và rất Huế của người con gái. Sự xuất hiện của khuôn mặt hiền từ nhân hậu đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ thêm sống động khi có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.
Khổ thơ thứ hai gợi lên cảnh dòng sông êm đềm, mang theo nỗi buồn và niềm mong ước hão huyền:
“Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay ? “
Không gian có gió, mây, nước, nên thơ, đêm tĩnh mịch gợi nỗi buồn chia li. Cảnh chia ly “gió theo gió, mây đi theo mây” là nỗi mặc cảm của nhà thơ về tình yêu phải xa cách, không thể đi cùng người yêu. Vì lòng người đầy bi ai nên thiên nhiên cũng buồn theo. Dòng sông vẫn chảy nhưng “buồn bã”, gió xao xuyến, những bông ngô đồng trôi vô định trên mặt nước. “Nước buồn hoa ngô nằm” cảnh gợi sự cô đơn, thê lương, sầu muộn. Dòng sông buồn như chính tâm trạng của nhà thơ.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?”
Những vần thơ “Có kịp mang trăng về kịp đêm nay?” chuyển tải một nỗi niềm của nhà thơ, một niềm khao khát tình yêu được cập bến, được ở bên người để tâm sự, giãi bày. Nỗi nhớ mong, nhớ nhung, khao khát mãnh liệt của tâm hồn được cất lên bằng lời thơ bình dị. Có lẽ lúc này tác giả đang lo sợ vì số phận ngắn ngủi của đời mình. Sợ rằng thời gian ngày càng ngắn lại mà lòng người vẫn không khỏi vơi đi nỗi trống trải, cô đơn, buồn tủi. Liệu chiếc thuyền kia có chở vầng trăng hạnh phúc ấy đến với người đàn ông may mắn này?
Hiện thực khắc nghiệt và hiu quạnh khiến tác giả phải đi tìm giấc mơ, nơi anh có thể nhìn thấy người con gái mình yêu, dù chỉ là một chút hạnh phúc trong ảo ảnh:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra; Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?”
Trong giấc mơ đượm màu hy vọng, nhà thơ nhìn thấy từ xa có một vị khách trong tà áo dài trắng tinh, ẩn hiện trong làn sương mờ. Cái bóng dường như mờ đi và biến mất trong tích tắc. Sự thuần khiết, cao quý của cô gái trong ảo mộng khiến nhà thơ không khỏi ái ngại:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?”
Trong bài thơ, tác giả ngập ngừng, lo sợ về một dự cảm vô định. Một trái tim khao khát yêu và được yêu nhưng không bao giờ có được tình yêu trọn vẹn khiến tác giả nghi ngờ về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Không biết tình người có phong phú như tình người của chúng ta không?
Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi chất chứa những hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ đẹp mà buồn, lòng người cũng buồn mà đẹp, tất cả tạo nên sự hài hòa giữa cảnh và tình.
Đây thôn Vĩ Dạ qua bao thế hệ người đọc vẫn có một sức sống dồi dào. Bài thơ không chỉ là bức tranh Vĩ Dạ êm đềm thơ mộng mà còn là bức tranh đẹp của tấm lòng tha thiết với thiên nhiên và khát vọng được sống, được yêu của Hàn Mặc Tử.
Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 3
Ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:
Trăng nằm sóng soài trên cành liễu Đợi gió đông về để lả lơi…”
(Bẽn lẽn)
“Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”
(Hãy nhập hồn em)
“Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”.
(Đêm không ngủ)
Nhà thơ còn nói về thuyền trăng, sông trăng, sông trăng… Cả một thế giới hư ảo, diệu kì. Thơ Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng, thể hiện một tâm hồn “say trăng” với tình yêu thiết tha với cuộc đời, vừa thực vừa mộng. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940), ông đã để lại cho nền thơ ca nước nhà hàng trăm bài thơ và một số vở kịch thơ đặc sắc. Thơ ông như chảy ra từ máu và nước mắt, với nhiều hình ảnh kinh dị. Không ai hiểu rõ về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về xứ Huế đẹp và chất thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” như Hàn Mặc Tử.
“Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong “Tuyển tập thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về phong cảnh thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, đặc biệt là những cô gái duyên dáng, đa tình và đáng yêu. Hàn Mặc Tử viết về một tình yêu – tình yêu đơn phương, nồng nàn nên thơ, lung linh trong sáng và huyền ảo. Đoạn thơ thể hiện một nỗi bâng khuâng, một niềm khao khát hạnh phúc của nhà thơ đa tình, có nhiều nhân duyên với cảnh và người Vĩ Dạ.
Câu đầu của khổ thơ đầu thật “ngọt ngào” như một lời mời gọi vừa hân hoan ngày đoàn tụ vừa nhẹ nhàng trách móc người thương về bao nhớ nhung, chờ đợi. Giọng thơ nhẹ nhàng, đằm thắm, trìu mến: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có rất xa. Những cảnh xưa người xưa thấp thoáng trong những vần thơ đẹp với nỗi nhớ da diết. Bao kỉ niệm ùa về trong hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc miệt vườn và con người xứ Huế mộng mơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới. lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”
Cảnh được nhắc đến là một buổi bình minh tuyệt đẹp ở thôn Vĩ. Nhìn từ xa, nhà thơ đang say sưa ngắm những ngọn cau, những tàu cau lấp lánh dưới nắng mới, “nắng mới” rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh quen thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào, như vẫy gọi.
Quên màu xanh ở đây đi. Nhà thơ đã thốt lên đầy thán phục khi đứng trước một vườn Vĩ Dạ xanh mướt: “Vườn ai xanh như ngọc bích”. Sương đêm ướt đẫm cỏ cây hoa lá. Màu xanh mơn mởn, non mơn mởn, óng ả dưới ánh mai hồng trông thật “mượt” một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu điều hòa, người dân cần mẫn chăm bón mới có màu “xanh ngọc” ấy. Thiên nhiên rực rỡ, trẻ trung và tràn đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã viết: “Đổ trời xanh ngọc bích qua kẽ lá…” (“Thơ tình”). Hai chữ “vườn ai” gợi bao bất ngờ xen lẫn xót xa. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ bên khóm trúc trong vườn xuân: “Lá trúc che mặt phông”. Mặt trái xoan, mặt phấn son, mặt búp sen là vẻ đẹp của một mỹ nhân. Khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt đầy đặn, vuông vức và phúc hậu. “Lá trúc giăng ngang” là nét vẽ truyền thần đã làm nổi bật vẻ đẹp của người con gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, đằm thắm. Hàn Mặc Tử đã hơn một lần nói về tre và những cô gái. Khóm tre như bóng mát xanh che chở cho một tình yêu đẹp đang chớm nở:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc Nghe ra ý vị và thơ ngây”
(Mùa xuân chín)
Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả tre và thiếu nữ với một cách phối màu nhẹ nhàng, thoáng đãng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc… mặt chữ điền). Cảnh và người ở Vĩ Dạ thật hiền hòa, thân thiện và dễ mến.
Vĩ Dạ là một ngôi làng nằm bên bờ Hương Giang, ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với con đò thơ mộng, vườn cây xanh tươi bốn mùa, hoa trái xum xuê. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng sau những hàng cau, rặng tre, nơi thường cất lên câu hát “Nam Ai, Nam Bình” qua tiếng đàn tranh, tiếng đàn tam thập lục huyền ảo, du dương. Đây thôn Vĩ Dạ đẹp và thơ mộng. Hàn Mặc Tử đã tặng Vĩ Dạ bài thơ đẹp nhất bằng tất cả tình cảm yêu thương của mình. Đã bao năm rồi Huế và Vĩ Dạ xa cách. Tuy nhiên, cảnh vật và con người thôn Vĩ vẫn được nhà thơ bao dung, càng trở nên lung linh huyền ảo, thể hiện niềm mong mỏi tha thiết được trở về cố đô thăm lại cảnh xưa. Bức tranh tâm trạng đã khéo léo thể hiện bức tranh thơ mộng, hữu tình của thôn Vĩ.
Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Câu 5, 6 là những hình ảnh miêu tả gió, mây, sông và hoa (hoa ngô đồng). Giọng thơ nhẹ nhàng, hơi buồn. Nghệ thuật tương phản tạo nên một khung cảnh hài hòa, cân đối và sinh động. Gió và mây lùi xa như tình yêu của nhà thơ, tưởng gần mà xa, xa lắm. Dòng sông Hương êm đềm trôi lặng lẽ, trong tâm tưởng nhà thơ trở nên “buồn bã” và đượm buồn. Những bông hoa ngô đung đưa, nhẹ nhàng đung đưa trong gió nhẹ. Nhịp điệu nhẹ nhàng, thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được miêu tả thật tinh tế! Những ám chỉ lôi cuốn gợi lên bao câu hỏi mơ mộng. Ngoại cảnh bao la ngăn cách như trái tim, như tâm tư nhà thơ;
“Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.
Hai câu tiếp theo, nhà thơ tự hỏi “ai” hay tự hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ lại hình ảnh con thuyền mơ màng trên sông trăng. Dòng sông Hương quê tôi trở thành “sông trăng”. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã làm nên bài thơ hay về sông Hương với những con thuyền dưới trăng. Nguyễn Công Trứ từng viết: “Gió trăng chứa đầy thuyền”. Hàn Mặc Tử cũng đóng góp cho thơ ca Việt Nam hiện đại một câu thơ thất ngôn độc đáo:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn dòng sông trăng và con thuyền. Thuyền tôi hay “thuyền ai” vừa quen, vừa xa lạ. Chất thơ kỳ ảo trong “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là ở những chất liệu thơ ấy. Câu thơ gợi một hồn thơ xao xuyến trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, thể hiện một tình yêu thầm kín, nhẹ nhàng, thơ mộng và có chút buồn man mác. Ở đây, bức tranh tâm trạng tràn ngập ánh trăng, thấm đẫm một nỗi buồn cô đơn của khách đa tình.
Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm trạng của nhà thơ. Sinh thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về những cô gái sông Hương: “Những cô gái sông nước”
Hương – Da thơm là phấn, má hồng là son…”. Vĩ Dạ mưa nhiều, sáng chiều sương mù mịt. Khói lam mờ áo trắng em nhận không ra dáng người (người) hình ảnh) khi ngắm nhìn. Câu thơ chập chờn, thanh khiết, kín đáo và duyên dáng Gần mà xa mà thực. Mà thực mà mơ. Câu thơ rung động buồn ta biết Hàn Mặc Tử đã từng có một người đẹp mối tình ngang trái với một cô gái trẻ Huế mang tên một loài hoa đẹp, phải chăng nhà thơ đang nói về mối tình này?
“Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?”
“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” Những ám chỉ, luyến láy ấy tạo nên một giai điệu sâu lắng, êm dịu, mênh mang. Khoảng cách và nỗi buồn chia ly dường như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc càng thêm thương cảm cho nhà thơ tài hoa, đa tình nhưng kém may mắn, từng say đắm mối tình đơn phương mà suốt đời phải sống trong cô đơn, bệnh tật.
Cũng cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả bốn lần từ “ai” xuất hiện đều mơ hồ và đầy ám ảnh: “Vườn ai sao xanh như ngọc?” – “Thuyền ai cập bến trên sông trăng kia?” – “Ai biết tình ai có giàu không?” Người mà nhà thơ nói đến là một người đã đi xa, trong nỗi nhớ nhung, tuyệt vọng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình lạc lõng, lạc lõng trước một tình yêu đơn côi. niềm hy vọng mong manh mà tha thiết như có phai mờ sương khói ?.
Hàn Mặc Tử đã để lại cho chúng ta một bài thơ tình hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, nồng nàn và buồn bã, ngỡ ngàng và dửng dưng… biết bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, thất ngôn tứ tuyệt. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ tình tuyệt tác. Màu xanh ngọc bích vườn ai, con đò cập bến sông trăng, màu trắng áo em như dẫn hồn anh về thôn Vĩ Dạ khói lửa một thời đã xa, tìm bóng giai nhân, để nhớ nhà. Có tài thơ, đa tình nhưng bạc mệnh. Bức tranh tâm trạng trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đọng lại mãi trong lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng tôi.
“Xin chào Huế một lần anh đến Để ngàn lần anh nhớ trong mơ Em rất thực mà nắng thì mờ ảo Xin đừng lầm em với cố đô”.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 4
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hoài cổ. Theo những tư liệu về Hàn Mặc Tử, khi còn làm việc ở Nha điền bạ Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái của chủ điền trang Quy Nhơn, người làng Vĩ, Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mặc Tử dồn hết vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã tính chuyện lấy chồng.
Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ Em lấy chồng rồi, hết ước mơ Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng, Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.
Hàn Mặc Tử bị bệnh phong năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc, trong đó có ảnh phong cảnh xứ Huế, có sông, có thuyền, có bến có trăng và nhiều cảnh đẹp khác. hàng cau cao kèm theo lời Hoàng Cúc an ủi nhà thơ. Tấm bưu ảnh đã đánh thức cảm xúc của nhà thơ nên mới có bài thơ tuyệt vời này.
Khổ thơ đầu tiên mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ như một lời trách móc nhẹ nhàng pha chút tiếc nuối nhưng đằng sau đó là lời mời gọi tha thiết du khách hãy đến thưởng ngoạn cảnh đẹp “thôn Vĩ”.
Về thôn Vĩ để “ngắm mặt trời mới mọc”. Nhà thơ nhắc đến cây cau trước tiên bởi cây cau là một loài cây thanh cao, dáng đẹp, thân thẳng, tán lá xanh mướt, gợi lên lòng trung nghĩa, ngay thẳng. Hình ảnh cây cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, đó là “Nắng lên, nắng mới lên”. Từ “nắng” gợi cho ta hình ảnh ánh nắng ban mai, biểu tượng của sức sống và niềm vui lan tỏa khắp trái đất. Trong ánh ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lấp lánh như vươn mình lên để hấp thụ ánh vàng rực rỡ.
Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba như một tiếng kêu thích thú thể hiện sự ngạc nhiên và khâm phục. Cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái, được bàn tay khéo léo chăm sóc, được tắm mưa gió thường xuyên nên bóng mượt, lấp lánh như viên ngọc bích dưới nắng mai. Hình ảnh so sánh của tác giả trong đoạn thơ vừa chính xác vừa gợi cảm. Có thể nói, cách tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài ba.
Chỉ bằng vài nét chấm phá, Hàn Mặc Tử đã phác họa được khung cảnh sân vườn của một làng quê xứ Huế vừa thân thuộc, vừa bình dị, vừa thơ mộng độc đáo. Ngắm nhìn khu vườn xứ Huế trong “nắng mới” thật thanh thản. Nhưng khung cảnh Vĩ Dạ bồng bềnh sống dậy, khi xuất hiện bóng người: “Lá tre che mặt phông”. Mặt chữ điền thường gợi vẻ đẹp nhân hậu. trang trọng, quý phái, trong khi lá trúc gợi dáng người mảnh khảnh, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa hiện thực: thấp thoáng sau rặng tre có khuôn mặt rất hiền của ai đó hình như đang dõi theo khách từ xa, còn mang ý nghĩa tượng trưng, cách điệu.
Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh đẹp nên thơ, người cao thượng, nhân hậu. Tất cả tạo nên vẻ đẹp kín đáo, nhẹ nhàng. Nhờ vậy mà câu thơ đã làm nổi lên cái hồn của miệt vườn xứ Huế mà khổ thơ tập trung thể hiện.
Tóm lại, bằng những chi tiết hết sức thân thuộc, bình dị, Hàn Mặc Tử đã khắc họa nên một bức tranh thôn quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, sự hài hòa giữa cảnh và người. Bài thơ khơi dậy trong tâm hồn người đọc bao tình cảm đối với quê hương, làng quê Việt Nam.
Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của xứ Huế: sông Hương và vẻ đẹp trầm mặc, trầm mặc của Vĩ Dạ nói riêng và xứ Huế nói chung.
Về với Vĩ Dạ, về Huế, về núi Ngự, sông Hương, Hàn Mặc Tử cũng cảm nhận được tâm hồn, nhịp điệu rất Huế. Khung cảnh xứ Huế dưới ngòi bút Hàn Mặc Tử có sông, có bờ thiếp, có gió, có mây, có thuyền ai đậu dưới trăng bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh yên bình, thơ mộng.
“Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Hai dòng tả cảnh nhưng thấm đượm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia ly, buồn man mác. Phải chăng tình yêu đơn phương, không phút gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia tay, nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà buồn chia ly? Vì tôi đang trong tâm trạng buồn nên nhìn đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng nay lại đứt đoạn, như không gặp gỡ. Các từ “gió”, “mây” đã thể hiện điều đó. Và cả dòng nước vô tri vô giác cũng trở nên buồn bã cùng với những bông ngô đồng khẽ “rung rinh”. Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh mà dường như còn muốn tả nhịp điệu của cảnh. Đó là nhịp điệu uyển chuyển, bình dị, một nét trầm tư rất đặc trưng mà không nơi nào khác ở Huế có được. Hai câu thơ với nhịp điệu chậm rãi cũng đã thể hiện thành công cảm xúc trên.
Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử huyền ảo, lấp đầy vũ trụ, tạo nên một bầu không khí nửa thực nửa hư:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay”
Chỉ trong mơ sông mới là sông trăng và thuyền chở trăng. Ở đây, Hàn Mặc Tử là một người có đôi mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật, sự thật biến thành một giấc mơ, nhìn vào giấc mơ, nó sẽ biến thành một con hạc huyền diệu. Thơ anh Tư tao nhã quá! Ngọt ngào cả người” (Bích Khê).
Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp của cuộc sống và thiên nhiên. Mặt trăng còn tượng trưng cho hạnh phúc bình yên. Chính vì vậy, hình ảnh thơ Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong lòng người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mỹ, thánh thiện. Lời thơ dậy lên như một câu hỏi vô vọng. Hai dòng khổ thơ sau thể hiện niềm khao khát được gặp mặt đồng thời cũng thể hiện sự xao xuyến. mô phỏng sự chậm trễ. Chỉ một từ “đúng giờ” câu thơ cuối đã nói lên tất cả.
Đến khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình yêu cuộc đời nồng nàn nhưng vô vọng của tác giả.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra”
Cụm từ “lữ khách phương xa” vừa diễn tả nỗi nhớ nhung da diết, vừa diễn tả sự xa cách của một mối tình đơn phương vô vọng. Vì thế, “mộng khách đường xa” tác giả chỉ thấy “chiếc áo” mà “chẳng thấy đâu”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay cô thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ, khiến tác giả có một cảm giác bâng khuâng thực sự? Chỉ biết rằng đây là hình ảnh vừa rất gần gũi, vừa tha thiết, vừa xa xăm. Gần vì đã trở thành nỗi nhớ thường trực, xa vì khoảng cách thời gian, không gian và khói lửa của một tình yêu không hẹn ước “Áo em trắng quá nhìn không thấy” là một câu thơ khá hay. đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh Huế và cũng là màu gợi nên sự trong trắng tinh khôi rất phù hợp với cô gái trong mộng. Màu trắng bao trùm cả không gian, làm mờ đi tầm nhìn của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra hơn khi ẩn mình trong sương khói hư ảo của xứ Huế nắng mưa khói sương của một mối tình đơn phương. Vậy tình cảm của cô gái thôn Vĩ bao giờ mới bền chặt? “Có ai biết chữ đậm không?”.
Trong nỗi đau tột cùng, nhà thơ vẫn có những phút giây tâm hồn trong sáng để hướng về một miền quê thân thiết và một tình yêu mộng mơ để tạo nên một “viên ngọc thơ ngàn năm tuyệt vời, rực rỡ” Chế Lan Viên.
Tất nhiên, bài thơ có nguồn gốc và cảm hứng cụ thể, nhưng qua phân tích, ta thấy tác phẩm đã vượt ra khỏi ranh giới của cái cụ thể, đạt đến tầm khái quát nghệ thuật cao hướng tới cuộc sống rộng lớn.
Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là bài thơ bày tỏ tình yêu với một cô gái Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là một lời tỏ tình nồng nàn, một lời trăng trối. Mối tình cuối của nhà thơ Hàn Mặc Tử nói về tình yêu dày vò và quá sâu đậm với cuộc đời này.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 5
Hàn Mặc Tử là nhà thơ tài hoa của nền văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại nhắc đến một nghệ sĩ tài hoa và kém may mắn. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” ta cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.
Bài thơ viết về xứ Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là tiếng lòng thiết tha với quê hương nhưng cũng đầy u uất, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những vần thơ chan chứa tình Huế:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ, như một lời trách móc nhẹ nhàng, không chút giận hờn của một cô gái Huế đối với chàng trai mà mình thầm thương trộm nhớ. Câu thơ còn chứa đựng sự mong chờ, lời trách móc nhẹ nhàng sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ. Cũng là một lời mời gọi “ngọt ngào”, thôn Vĩ hiện ra, vẻ đẹp không hùng vĩ như cảnh “đèo Nàng” hay mang nét bí ẩn không nơi nào có, dưới ngòi bút của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất xứ Huế.
Vẻ đẹp được miêu tả từ “ánh nắng mới” trong ánh nắng ban mai, thứ ánh sáng dịu dàng, tinh khiết buổi sớm chiếu xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón những tia nắng đầu tiên. Vạn vật như được bao phủ bởi ánh sáng, một thứ ánh sáng thuần khiết, dưới ánh sáng ấy vạn vật như bừng lên sức sống căng tràn.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Một khu vườn hiện ra trước mắt, chỉ cần nhắm mắt lại ta cũng cảm nhận được màu xanh mượt mà, óng ả dưới ánh ban mai. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để gợi tả sức sống tươi mới, nhựa sống của cây cối đâm chồi nảy lộc.
Giữa khung cảnh thiên nhiên trữ tình ấy, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đó “Lá tre che mặt chữ điền”. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái xoan… hiếm ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ khuôn mặt hiền lành, đôn hậu.
Con người chập chờn, ẩn hiện sau những “Lá trúc” mơ màng, hư ảo. Phải chăng đây là người về thăm thôn Vĩ, người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng. Thôn Vĩ nằm bên dòng sông Hương êm đềm, xinh đẹp với những vườn cây xanh mướt, nằm bên bờ sông Hương vẻ đẹp hiện lên trong nỗi buồn:
Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?
Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chất chứa nỗi lòng của nhà thơ. Người ta thường nói “gió cuốn mây bay”, gió và mây đi cùng một hướng. Vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử “gió theo gió, mây theo mây”. Có sự chia ly đến tận tim. Nước sông Hương cũng đượm buồn man mác “hoa ngô” hai bên bờ. Cảnh vật như có sự ngăn cách, rung chuyển.
Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mình yêu, sự tiếc nuối khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và trăng” thường xuất hiện trong bài thơ “thuyền trăng gió trăng không đầy” – Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh trữ tình ấy để nói lên cảm xúc của mình “Thuyền ai đậu bến sông trăng ấy”.
Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của nhà thơ không còn mang hình ảnh đơn thuần mà trở thành “dòng sông trăng” khiến cho cả dòng sông và cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Ai ngờ “dòng suối buồn” vì “bông ngô đồng” bay trong nắng chiều lại có thể trở thành “dòng sông trăng” thơ mộng đến thế.
“Thuyền ai” là thuyền của ai xa lạ, hay là thuyền chở người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen vừa xa lạ. Câu hỏi tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có kịp đưa trăng về kịp đêm nay”. Câu hỏi mà không có câu trả lời, phải chăng là sự tiếc nuối, hay sự thất bại trong tình yêu, “đúng hẹn” làm cho câu thơ trở nên gấp gáp hơn, gấp gáp hơn, dường như đang cố chạy đua cho kịp với mong đợi, hay với tình yêu mà nhà thơ. trân trọng?
Nhưng tất cả những ưu tư, ký ức ấy chỉ còn trong tiềm thức, dễ dàng tan biến như ánh trăng dưới sông Hương. Thực tế chỉ là một giấc mơ tàn nhẫn:
Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá, nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?
Nhà thơ đã sử dụng phép điệp ngữ “khách phương xa… khách phương xa” làm cho giọng thơ sâu lắng, luyến tiếc trong nhớ nhung, bùi ngùi trong hiện tại. Mọi thứ dường như mờ đi bởi màu áo trắng, màu trong sáng tinh khôi ấy hiện ra dưới ánh nắng nhẹ, màu tượng trưng cho màu áo đồng phục của nữ sinh Huế.
Và ở bài thơ này nó cũng mang màu sắc hoài niệm của chính tác giả. Dưới làn sương sớm, hình ảnh “khói sương” trắng xóa như mờ đi, như ẩn, như hiện, trở nên xa xăm, khó nắm bắt. Giữa khoảng trống ấy, câu thơ cuối như một nỗi thất vọng của chính tác giả “Biết tình ai có giàu không?”.
Nỗi thất vọng về một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời bài hát phảng phất nét u sầu. Bài thơ kết thúc trong nỗi buồn. Nhà thơ không nói với ai, mà chỉ nói với chính lòng mình, băn khoăn không biết cảm xúc kia là “đậm đà” hay chỉ là hư ảo như tà áo trắng trong sương sớm.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kết hợp tuyệt đối giữa cảnh và tình. Qua đó, ta càng khâm phục ý chí sống của chính tác giả, và tài năng của một người nghệ sĩ giàu lòng yêu nước.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 6
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã viết bằng rất nhiều tâm huyết. Đoạn thơ thể hiện tình yêu và nỗi nhớ quê hương xứ Huế mà tác giả đã từng công tác tại đây.
Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) quê ở Bình Định nhưng có một thời gian học ở Huế và làm việc tại đây. Với anh, Huế là quê hương thứ hai và cũng là nơi để lại cho anh nhiều dấu ấn, kỷ niệm nhất. Qua việc phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp ta hình dung được cảnh vật cũng như con người xứ Huế nơi đây.
Mở đầu bài thơ là những lời ngọt ngào mà tha thiết của cô gái dành cho chàng trai: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Thôn Vĩ là một ngôi làng xinh đẹp nằm bên dòng sông Huế thơ mộng. Thôn Vĩ hay còn gọi là Đây thôn Vĩ Dạ mà tác giả nhắc đến là một làng quê yên bình và xinh đẹp.
Đây cũng là nơi tác giả đã làm việc và học tập tại đây. Phải chăng đó là những lời thủ thỉ nhắc nhở của cô gái với chàng trai rằng hãy về Đây chơi thôn Vĩ Dạ vì nơi đây có rất nhiều cảnh đẹp và bí ẩn mà lâu rồi chàng trai chưa được đến thăm. Khung cảnh nơi đây đẹp đến lạ lùng khi tác giả đã miêu tả rõ nét từng hình ảnh bình dị nhất:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ở đây, cảnh vật có hai màu chủ đạo là xanh và nắng vàng. Cảnh quan nơi đây có những hàng cau cao vút, xanh mướt một màu. Hình ảnh cây cau mọc thành hàng, vào mùa ra hoa thật đẹp. Hoa cau vừa đẹp lại vừa thơm, đó là lý do cây cau không thể thiếu ở Huế. Nếu đã từng đến Huế, bạn sẽ có dịp chiêm ngưỡng những vườn cau đẹp mê hồn của người dân nơi đây.
Ở Huế, bạn cũng sẽ thấy những sân cỏ rộng rãi với những cây cau bên trong. Một không gian tràn ngập sắc xanh và điểm tô bởi ánh nắng vàng khiến không gian trở nên thơ mộng, trữ tình. Vườn nhà đã được tác giả nói: “thật mát” một từ cho thấy sự tươi tốt, màu mỡ của cảnh vật nơi đây. Những giọt sương long lanh còn đọng trên cây cỏ rồi ánh nắng nhẹ nhàng chiếu vào tạo nên những viên ngọc trai được tác giả miêu tả: “xanh như ngọc”.
Biện pháp so sánh được sử dụng ở đây khiến người đọc liên tưởng hoặc tưởng tượng ra một bức tranh nhiều màu sắc mà tác giả đã vẽ nên. Nhưng đến khổ thơ thứ hai, giọng thơ trở nên trầm lắng, thoáng chút buồn:
“Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?’’
Hai thứ gió và mây khi nhắc đến bao giờ cũng gợi cho ta sự yêu thương. Mây và gió luôn không thể tách rời, tượng trưng cho tình cảm lứa đôi gắn bó, thân thiết. Nhưng ở đây, tác giả lại cho thấy điều ngược lại đó là sự ngăn cách, xa cách giữa gió và mây, mỗi người đi về một hướng. Phải chăng đây là lời nhắn nhủ của nhà thơ với người con gái Hoàng Kim Cúc? Họ xa nhau một thời gian dài khi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn viết báo và cô Cúc phụ giúp công việc cho cha.
Câu thơ thứ hai trong khổ thơ chính miêu tả cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của người dân xứ Huế chậm rãi, yên bình như tả dòng nước chảy chầm chậm, chầm chậm. Những bông hoa ngô đung đưa nhẹ nhàng khi gió thổi.
Câu thơ tiếp theo là một phép gợi nhớ khiến người đọc liên tưởng nhiều nhất đến cảnh có trăng và thuyền. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và soi bóng cả một dòng sông khi ánh trăng soi bóng một con thuyền. Đêm nay thuyền chở trăng về kịp hay lỡ làng? Đây là cách nói ẩn ý của tác giả rằng chuyện tình của mình sẽ còn có thể quay lại và yêu thêm lần nữa hay hai người sẽ lạc mất nhau mãi mãi?
Khổ thơ cuối là lời thốt ra từ đáy lòng của tác giả và cũng là những suy ngẫm của tác giả về người con gái ấy:
“Mơ khách đường xa khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu đầu trong khổ thơ cuối gây ấn tượng cho người đọc bởi sự lặp lại từ ngữ hai lần khách đường xa càng gợi thêm khoảng cách. Áo cô gái trắng đến nỗi tác giả không nhận ra nữa vì cô gái quá đẹp khiến tác giả không thể nhận ra người con gái mình đem lòng yêu. Sương khói dày đặc làm mờ hình ảnh của một người và tác giả tự hỏi liệu cô ấy có còn yêu và có tình cảm mãnh liệt với mình không? Câu thơ cuối là tiếng lòng của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.
Qua phần phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, ta sẽ biết đây là bài thơ hay nhất mà Hàn Mặc Tử viết trước khi qua đời vì bệnh phong. Qua bài thơ ta có thể hình dung được vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như con người ở mảnh đất Huế xinh đẹp, nơi từng là cố đô của nước ta. Đoạn thơ cũng khắc họa tình yêu chân thành mà nhà thơ dành cho người con gái Huế thật đậm đà và ngọt ngào!
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 7
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những kiệt tác mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho thế gian. Đây là những bài thơ ngọt ngào và mát mẻ. Trước khi viết bài thơ, nhà thơ mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ da diết, đau đáu với quê hương Vĩ Dạ, nơi đã trải qua biết bao thời gian tươi đẹp ở đây.
Huế là quê hương thứ hai của nhà thơ Hàn Mặc Tử khi ông còn là nhân sĩ, sau chuyển vào Sài Gòn viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong tác phẩm của nhà thơ với nhiều cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp không kém. Huế cũng là vùng đất đặc trưng bởi nhiều cau mà trong thơ Hàn Mặc Tử có nhắc đến:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Đó là một lời trách mắng nhẹ nhàng êm ái mà ai đọc qua cũng đoán được đó là lời trách móc của một cô gái dành cho một chàng trai. Nhưng nghe câu nói thấy êm tai nửa hờn dỗi quá! Cô gái trách chàng trai sao không về làng xem cau mới lớn và được nắng “đổ” vào.
Những cây cau cao vút lá xanh mướt trông thật đẹp mắt nay đã được nắng vàng bao phủ! Ôi, thật là một bức tranh thiên nhiên tràn ngập ánh sáng tuyệt đẹp. Chưa dừng lại ở đó, khi đọc hai câu thơ tiếp theo, ta còn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoàn mỹ đến khó tin:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Nếu bạn đã từng đến Huế, bạn sẽ thấy những khu vườn xinh xắn với cỏ và cau mọc bên vườn. Người Huế giản dị lắm, chỉ cần sống gần gũi với thiên nhiên mộc mạc nhưng trữ tình cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thật thi vị và đẹp biết bao khi chẳng cần nhà chọc trời hay cao ốc. Xe to, khi vào Huế mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của ngày xưa.
Đường phố đông đúc người đi bộ và người đi xe đạp, không ồn ào cũng không vội vã. Tác giả miêu tả: “Vườn ai xanh như ngọc” là vẻ đẹp của cây cỏ xanh tươi đọng lại bởi sương sớm. Khoảnh khắc ấy đã đẹp, bây giờ lại càng đẹp hơn khi những tia nắng chiếu vào.
Khung cảnh vẫn tráng lệ và đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Trời mát nên cây cỏ phát triển tươi tốt mà xanh mướt như ngọc bích. Viên ngọc xanh đại diện cho màu xanh lam. Tác giả đã khéo léo liên tưởng giữa màu xanh của cỏ và màu xanh của ngọc bích. Qua đây ta thấy được óc quan sát tinh tế cũng như tài tình của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Người dân xứ Huế thể hiện vẻ đẹp chân chất, hiền hòa biết bao qua câu thơ: “Lá tre che mặt phông”. Khuôn mặt vuông vức là biểu hiện cho sự nhân từ, vuông vức toát lên sự hiền hòa, nhân hậu của con người nơi đây. Ở khổ thơ thứ hai, tác giả đặc biệt khắc họa rõ nét nhịp sống của người dân xứ Huế chậm rãi mà nhịp nhàng:
“Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng nước chảy chậm đến nỗi ngay cả những bông ngô “buồn bã” cũng di chuyển rất chậm. Câu thơ cũng nhắc ta về khoảng cách giữa gió thổi một chiều và gió thổi một chiều. Phải chăng đó là sự ngăn cách, là đường song song không bao giờ có điểm chung trong tình yêu giữa chàng trai Hàn Mặc Tử và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc – người con gái mà nhà thơ đã thầm yêu năm xưa? .
Và khi đọc câu thơ: “Thuyền ai cập bến sông trăng ấy, có chở trăng về kịp đêm nay?” khiến người đọc có thể hình dung ra một chiếc thuyền nằm trên sông và ở đó có vầng trăng sáng. Con thuyền đi đâu như mang theo cả vầng trăng. Liệu con thuyền có chở trăng ngược thời gian?
Khổ thơ cuối là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái Huế mà anh thầm thương trộm nhớ được diễn tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:
“Mơ khách đường xa khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?”
Tác giả mơ thấy một giấc mơ, trong đó có một vị khách lạ chính là người con gái mà ông đem lòng yêu mến. Chiếc áo trắng đến nỗi nhà thơ không còn nhận ra cô gái ấy nữa. Màu áo trắng cũng khiến ta dễ liên tưởng đến tà áo trắng của nữ sinh Huế. Câu thơ được lặp lại từ một người khách phương xa hai lần nữa cho thấy sự sâu xa, xa lạ giữa nhà thơ và nhân vật mà tác giả nhắc đến.
Sương khói đã làm mờ hình ảnh cô gái, khiến tác giả có cảm giác xa cách, khó gần. Tác giả tự hỏi lòng mình: “Biết rằng tình ai giàu?”. Không biết cô gái ấy có còn nhớ và yêu Mặc Tử hay không? Đọc xong bài thơ, tôi có chút chạnh lòng, đó là tình yêu dạt dào của tác giả đã gửi đơn phương cho một cô gái mà không được đáp lại.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!