Phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh
Tài liệu hướng dẫn phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm nội dung gợi ý cách làm chi tiết và một số bài văn mẫu hay phân tích diễn biến tâm trạng của người chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
Hướng dẫn làm bài phân tích tâm trạng của người chinh phụ
Đề bài: Phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Đặng Trần Côn).
1. Phân tích đề
– Yêu cầu: phân tích tâm trạng người chinh phụ trong Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ của Đặng Trần Côn.
– Phương pháp lập luận chính: Phân tích.
2. Hệ thống luận điểm
– Luận điểm 1: Nỗi cô đơn của người chinh phụ
– Luận điểm 2: Nỗi sầu muộn triền miên của người chinh phụ
– Luận điểm 3: Niềm thương nhớ chồng của người chinh phụ
– Luận điểm 4: Thái độ của tác giả trước tâm trạng của người chinh phụ.
3. Lập dàn ý chi tiết
a) Mở bài
– Giới thiệu về tác giả và đoạn trích:
+ Đặng Trần Côn là con người tài ba học giỏi và có tài văn chương.
+ Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là một trong những đoạn hay và xúc động nhất của tác phẩm Chinh phụ ngâm.
– Khái quát tâm trạng của người chinh phụ: Tâm trạng chủ đạo buồn sầu cô đơn nhung nhớ.
b) Thân bài
* Luận điểm 1: Nỗi cô đơn của người chinh phụ(8 câu đầu)
– Cảnh ngộ: Chồng đi đánh trận, người chinh phụ phải ở nhà một mình.
– Hành động:
+ “Gieo từng bước”: bước chân chậm rãi từng bước một
+ “Rủ thác đòi phen”: Buông xuống cuốn lên nhiều lần.
=> Hành động lặp đi lặp lại nhiều lần, không có mục đích
=> Tâm trạng bần thần, cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
– Hình ảnh:
+ “Chim thước”: Loài chim báo tin lành.
-> Người chinh phụ ngóng trông tin chồng thắng trận trở về, nhưng thước chẳng mách tin
=> Sự ngóng trông đến vô vọng.
+ “Ngọn đèn”, “chẳng biết”: Gợi thời gian đêm khuya
=> Gợi sự cô đơn, khát vọng sum họp, không ai chia sẻ.
+ “Hoa đèn – bóng người”: Gợi sự trằn trọc, thao thức vì nhớ chồng, con người không còn sức sống.
=> Tâm trạng buồn sầu, nhớ nhung, ngóng trông vô vọng.
– Lời độc thoại của nhân vật.
+ “Lòng thiếp riêng bi thiết”: Nỗi lòng bi thương, thảm thiết không nói lên lời
+ “Buồn rầu”: Buồn đau, cô đơn
+ “Khá thương”: Xót xa, đau đớn, bồn chồn
– Nghệ thuật:
+ Đối: rủ – thác, ngoài – trong
+ Điệp ngữ bắc cầu: đèn biết chăng – đèn chẳng biết -> Tâm trạng buồn triền miên, kéo dài.
+ Câu hỏi tu từ: Là lời than thở khắc khoải không yên
+ Những từ ngữ đặc tả tâm trạng: Bi thiết, buồn rầu, khá thương,… tô đậm tâm trạng nhân vật.
* Luận điểm 2: Nỗi sầu muộn triền miên của người chinh phụ (8 câu tiếp)
– Cảnh vật:
+ “Gà eo óc”, “năm trống”: Gợi âm thanh của sự lẻ loi, cô quạnh và thời gian ban đêm trống vắng
=> Người chinh phụ nhớ chồng thao thức suốt đêm.
+ “Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”: Bóng cây hòe ngoài sân trong vườn ngắn rồi dài, dài lại ngắn nhàm chán không có sức sống.
=> Cảnh vật gợi sự cô quạnh, hoang vắng đến đáng sợ.
– Thời gian:
+ “Khắc giờ đằng đẵng như niên”: Một giờ xa cách như một năm dài đằng đẵng.
=> Nỗi buồn kéo dài vô tận.
+ “Mối sầu”, “dằng dặc”, “miền biển xa”: Cụ thể hóa nỗi sầu, giúp người đọc cảm nhận được sự dàn trải của nó.
=> Tô đậm nỗi cô quạnh, sầu muộn dàn trải của người chinh phụ
– Hành động:
+ Động từ “gượng”: gượng gạo, miễn cưỡng
+ “Hương gượng đốt”, “hồn đà mê mải”: Miễn cưỡng đốt hương tìm sự thanh thản nhưng lại mê man.
+ “Gương gượng soi”, “lệ lại châu chan”: Gượng gạo soi gương mà òa khóc
+ “Gượng gảy ngón đàn”: Khát khao hạnh phúc nhưng lại sợ điềm gở.
– Hình ảnh “Sắt cầm, dây duyên, phím loan”: Biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi nhưng lại gợi nỗi đau chia lìa.
=> Người chinh phụ càng cố gắng giải tỏa thì tâm trạng càng cô đơn, tuyệt vọng, nỗi sầu muộn càng trở nên ám ảnh.
– Nghệ thuật
+ Sử dụng các từ láy gợi hình gợi cảm: eo óc, phất phơ, đằng đẵng,…
+ Sử dụng các hình ảnh so sánh: lấy vật hữu hình để nói vật vô hình để cụ thể hóa nỗi sầu.
+ Điệp từ “gượng”: Khắc họa tâm trạng gượng gạo một cách ám ảnh
+ Hình ảnh ước lệ, tả cảnh ngụ tình.
* Luận điểm 3: Niềm thương nhớ chồng của người chinh phụ (8 câu cuối)
– Không gian:
+ “Gió Đông, non Yên”: Hình ảnh ước lệ gợi hình ảnh người vợ phải mượn ngọn gió Đông mới có thể truyền tải được nỗi nhớ chồng.
+ “Đường lên bằng trời”: Xa vời dường như không có điểm cuối
=> Nhấn mạnh sự xa cách trùng khơi của người chinh phụ, thể hiện tình yêu và nỗi nhớ da diết của người chinh phụ.
– Tính chất nỗi nhớ:
+ “Thăm thẳm”: Gợi độ dài của thời gian, độ rộng của không gian, độ sâu của nỗi nhớ.
+ “Đau đáu”: Trạng thái không yên lòng, quan tâm nhớ nhung, mong đợi, day dứt khôn nguôi.
=> Nỗi nhớ triền miên trong thời gian vô tận được cụ thể hóa bằng không gian xa vời, khắc họa nỗi nhớ khắc khoải dằng dặc.
– Tâm trạng:
+ “Cảnh buồn, thiết tha lòng”: Tả cảnh ngụ tình, cảnh buồn, lòng người đau xót, quặn thắt.
+ “Cành cây sương đượm”: Gợi sự buốt giá, lạnh lẽo
+ “Tiếng trùng mưa phun”: Sự ảo não, hoang vắng, nghe được cả tiếng côn trùng kêu rả rích.
=> Tâm trạng cô đơn, thổn thức, nỗi nhớ thương, khát khao được đồng cảm nhưng vô vọng.
– Nghệ thuật:
+ Từ láy gợi hình gợi cảm: thăm thẳm, đau đáu, thiết tha
+ Hình ảnh ước lệ: gió đông, non Yên.
+ So sánh: “đường lên bằng trời”
+ Điệp từ: “nhớ”, “gửi”, “thăm thẳm”
+ Điệp ngữ bắc cầu: “non Yên – non Yên”, “bằng trời – trời thăm thẳm”.
+ Tả cảnh ngụ tình: “Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”.
* Luận điểm 4: Thái độ của tác giả trước tâm trạng của người chinh phụ.
– Thương xót, cảm thông trước tình cảnh cô đơn sầu muộn của người chinh phụ
– Ngợi ca tấm lòng thủy chung, khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.
– Lên án chiến tranh phong kiến đã gây ra cho con người bao đau khổ, mất mát.
* Đặc sắc nghệ thuật
– Thể thơ song thất lục bát giàu nhạc tính
– Sử dụng từ láy, biện pháp điệp từ, điệp ngữ
– Hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng
– Ngôn từ chọn lọc
– Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
– Bút pháp miêu tả nội tâm nhân vật tinh tế
c) Kết bài
– Khái quát lại tâm trạng của người chinh phụ
– Suy nghĩ của bản thân: Đồng cảm, thương xót cho người phụ nữ, trân trọng những vẻ đẹp phẩm chất của họ.
4. Sơ đồ tư duy phân tích tâm trạng người chinh phụ
Một số bài văn tham khảo phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Phân tích tâm trạng của người chinh phụ – Bài tham khảo 1
Trong cuộc đời chúng ta sẽ có ít nhất một lần chịu tình cảnh lẻ loi. Không biết lẻ loi vì thiếu bạn, lẻ loi vì chồng hay vì những vấn đề nào đó. Nói chung tình cảnh ấy rất dễ có ở trong con người chúng ta. Cuộc sống không bằng phẳng vì thế cho nên những vấn đề khiến ta lẻ loi sẽ rất dễ xảy ra. Tuy nhiên nổi bật nhất là lẻ loi vì chồng. Trong thơ xưa Đoàn Thị Điểm đã đem đến cho chúng ta một đoạn thơ hay về tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi đánh trận nơi xa. Bài thơ đã bật lên những nỗi nhớ nhung sầu muộn của người phụ nữ thiếu vắng bóng chồng.
Trước hết là bốn câu thơ đầu với những tâm trạng cảm xúc của người lẻ loi ấy:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”
Dõi theo từng bước chân của người thiếu phụ ấy ta thấy một tâm trạng thẫn thờ của cô. Dường như bàn chân kia không muốn bước nữa chỉ như cố bước đi mà thôi. Có lẽ bàn chân ấy chỉ muốn chôn tại một chỗ để làm cho những cảm xúc kia chìm đắm trong con người ấy. Nói đúng hơn thì cảm xúc kia như níu bước chân lại không muốn cho đi. Ngồi trong rèm thưa mà nàng thấy lòng mình buồn vô tận. Đó là một nỗi buồn thương không thể có ai hiểu được cho nàng. Người nàng thương nhớ cũng không có ở đấy khiến cho một mình nàng như bị cảm xúc kia dìm xuống. Nàng còn buồn rằng con chim thước ngày nào cũng không có để nàng hỏi tin về chàng. Trong rèm kia ngọn đèn dường như chứng kiến mọi hoạt động tâm trạng của nàng nhưng liệu đèn có biết không. Câu hỏi vang lên nghe sao thật chua chát. Đúng là đèn thức cùng nàng thật đấy nhưng đèn cũng chỉ là một vật vô tri vô giác dẫu có biết thì cũng không nói lên được. Cả trong rèm cả ngoài rèm đều không thể cho nàng một chút an ủi nào. Nàng càng buồn lại càng buồn hơn.
Và nàng cũng như biết được sự vô tri của đèn, nàng hỏi như thế rồi nàng lại tự trả lời câu hỏi của mình:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng lên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Đúng là có biết cũng không thể nói lên, kể cả cho đèn kia giống như một con người để từ đó cảm nhận được nỗi đau của người thiếu phụ thì cũng không thể nói được hết cái tâm trạng của nàng. Chỉ có mình nàng mới hiểu được cảm xúc ngập tràn trong nàng bây giờ thôi. Nàng buồn không thiết nói lời nào, và hình ảnh hoa đèn lại như an ủi nàng nó trở thành người bạn để cho thức cũng như tương tư của nàng. Phải chăng nàng đang cố tìm đến sự đồng cảm, không có người đồng cảm nàng tìm đến hoa đèn kia. Chứ thực chất thì hoa đèn cũng có biết chi đâu mà thương cho nàng.
Chính cái tâm trạng ấy đã tác động đến cảnh vật. Đôi mắt nhớ thương chồng của nàng nhìn đâu cũng thấy tàn phai, buồn bã:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Hương gượng soi lệ lại châu chan Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại ngùng”
Tiếng gà báo canh nghe ấm áp như thế mà qua sự cảm nhận của người thiếu phụ lại trở thành sự eo óc buồn lạ thường. Thấy rõ được những tiếng gà gáy như thế chắc hẳn nàng không ngủ được nên mới nghe được những tiếng gà gáy năm canh đó. Cây hòa ngoài kia cũng rủ bóng bốn bên. Nó giống như hàng tóc của người con gái vì nhớ thương lẻ loi không thiết tha gì cúi đầu mặc cho mái tóc rũ xuống. Mỗi giờ trôi qua đối với nàng dài tựa một năm vậy. Người ta thường ví khoảng thời gian mong chờ bao giờ cũng dài như hàng thế kỉ trôi qua vậy nhất là đợi chờ người mình yêu thương. Và ở đây người chinh phụ cũng lẻ loi chờ đợi vì thế cho nên mới thấy một khắc dài tựa một năm. Mối sầu thì dằng dặc như miền biển xa. Có thể nói nỗi buồn sầu kia mang tầm vóc không gian rộng lớn và thời gian dài đằng đẵng. Và chính vì thế mà nàng không thiết tha gì đến bản thân mình nữa. Nếu có soi gương thì cũng chỉ là gượng soi mà thôi. Nếu có đánh đàn thì cũng ngượng ngạo mà sợ dây loan kia đứt. Đàn đứt thì không may mà chồng nàng ở biên cương đối đầu với cái chết. Nàng không muốn thấy một điềm gở nào và hình ảnh dây loan kia chính là dây hồng tình nghĩa của vợ chồng.
Thế rồi nỗi sầu muộn lại được bao trùm trong những câu thơ cuối đoạn trích:
“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”
Nàng mượn gió đông để gửi những tâm tư tình cảm và tấm lòng của mình đến người chồng nơi biên cương cửa ai. Chốn non yên kia không biết chàng có nhận được những tâm sự của nàng không nhưng nàng vẫn mong gửi đi. Có tiện thì mong chàng hãy biết đến tấm lòng của thiếp. Đường đi của những tâm sự ấy phải trải qua biết bao nhiêu núi non hiểm trở và bản thân nàng thì biết rõ điều đó. Nàng bỗng thấy thương nhớ thăm thẳm, dường như nỗi nhớ ngày một xoáy sâu vào trong lòng nàng. Và như không thể kìm được cảm xúc nàng đau lòng bật lên những tiếng khóc hòa vào những hạt mưa ngoài kia.
Như vậy qua đoạn trích này ta thấy Đoàn Thị Điểm đã mang lại cho chúng ta những cung bậc cảm xúc của người chinh phụ mà cảm xúc bao chùm chính là sự lẻ loi đơn chiếc. Người con gái ấy phải sống xa chồng, thân con gái chỉ có một mình vò võ thử hỏi rằng làm sao không nhớ không thương không sầu muộn. Qua đây ta thấy nhà thơ như đồng cảm với số phận của người phụ nữ ấy.
Xem thêm: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Phân tích tâm trạng của người chinh phụ – Bài tham khảo 2
Người con gái trong xã hội phong kiến xưa luôn là người gánh chịu nhiều đau khổ thiệt thòi nhất. Nếu không bị vào cung trở thành cung nữ, được sủng ái rồi bị ruồng bỏ không thương tiếc hay lấy chung một chồng để rồi phận má đào bị ghẻ lạnh đơn côi thì cũng phải xa chồng vì chiến tranh. Người con gái trong Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ không phải sống kiếp chồng chung, không bị ruồng bỏ nhưng lại phải lẻ loi đơn chiếc vì chồng ở nơi trận mạc binh đao. Đoạn trích thể hiện rõ tâm trạng cô đơn và nỗi đau khổ của nàng.
Trước hết đoạn trích thể hiện tâm trạng cô đơn của người chinh phụ. Nỗi cô đơn ấy cứ bủa vây lấy nàng, khiến nàng không thể làm gì và cũng chẳng làm được gì, ngày thẫn thờ đêm thức trắng:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương !”
Trên từng bậc thềm, xưa kia còn in dấu gót của hai người vậy mà giờ đây chỉ có mỗi một mình nàng gieo từng bước cô quanh. Hiên cũng như vắng đi một con người đứng đó. Nàng thẫn thờ trong nỗi cô đơn độc bước, dạo để khuây khỏa mà lòng vẫn chưa yên. Đứng không xong nàng lại ngồi trong chiếc rèm chờ con chim thước đưa tin từ chiến trận gửi về. Nhưng chờ thì cũng chỉ chờ trong vô vọng, chim thước không thấy đâu mà nỗi cô đơn thì ngày càng nuốt chửng lấy người con gái mềm yếu. Ngày đêm chỉ có chiếc đèn làm bạn, đèn thức cùng nàng nhưng liệu rằng đèn có thấu hiểu cho nỗi lòng cô quạnh của người chinh phụ. Nàng tự hỏi rồi tự trả lời, đèn có biết thì cũng bằng không biết chỉ có riêng nàng chịu đựng với nỗi cô quạnh đó mà thôi.
Phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Nàng không chỉ bị nỗi cô đơn vây lấy mà nỗi đau khổ cũng cứ thể mà chiếm lấy nàng. Nó dằn vặt nàng sống mà hồn “mê mải”:
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phi’m loan ngại chùng.
Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.”
Tiếng con gà gáy sáng trong màn sương ảm đạm càng làm cho nỗi cô đơn trở thành nỗi đau. Nàng đã thức trắng cả một đêm, không phải nàng không muốn ngủ mà nàng không thể nào nhắm mắt được. Trước nguy cơ nàng có thể trở thành phụ nữ góa chồng bất cứ nào khiến cho nàng đau khổ. Nàng lo lắng thương cho chồng và ngẫm cho mình. Cây hòe bên ngoài kia cũng ủ rũ, cành cây ướt đẫm sương đêm. Cái màn sương lạnh giá ấy lại thêm tiếng mưa phùn làm cho người chinh phụ buồn lại càng buồn, nỗi nhớ đau đáu trong tim. Nó thường trực trong lòng chứ không phải phút đến phút lại đi. Mỗi giờ phút qua đi được tính từ cái tích tắc một, thời gian chạy chậm như đè nặng thêm sự đau khổ trong lòng người con gái.
Như vậy qua đây ta có thể thấy, chiến tranh không chỉ cướp đi những người trai tráng hiền lành khỏe mạnh, những người chồng thương yêu vợ mà còn biến những người con gái trẻ thành những bà góa phụ. Người chinh phu ở nơi xa sống chết như thế nào làm sao người chinh phụ có thể biết. Nàng chỉ biết nhớ, biết thương biết lo lắng mà thôi.
>> Tham khảo: Soạn bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Phân tích tâm trạng của người chinh phụ – Bài tham khảo 3
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được trích từ tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Tác phẩm đã cho thấy nỗi cô đơn khắc khoải của người chinh phụ có chồng ra chiến trận. Nỗi cô đơn ấy càng đậm nét hơn khi nàng vừa tiễn chồng đi còn mình trở về nơi buông the cô đơn lạnh lẽo. Tất cả những cung bậc cảm xúc đó đã được khắc họa trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
Văn bản được trích từ câu 193 đến câu 216 của bản diễn Nôm. Sau buổi đưa tiễn chồng, người chinh phụ trở về, tưởng tượng nơi chiến trường đầy chết chóc mà lòng xót xa, lo lắng cho chồng và thương cảm cho hoàn cảnh cô đơn, lẻ loi của mình. Tâm sự của nàng diễn biến qua rất nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau đã được tác giả tinh tế nắm bắt trọn vẹn.
Tám dòng thơ đầu cho thấy tâm trạng bồn chồn của người chinh phụ trong tình cảnh lẻ loi, đơn chiếc:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Không gian hết sức cô quạnh, vắng vẻ chỉ có bước chân người chinh phụ thầm gieo trên hiên vắng. Tâm trạng nàng hết sức bồn chồn, lo lắng, nàng đứng ngồi không yên, hết rủ rèm rồi lại cuốn rèm, đi đi lại lại ngong ngóng tin chồng trở về, nhưng người chồng vẫn ra đi bặt vô âm tín. Hành động treo rèm lại rồi lại kéo rèm xuống là hạnh động diễn ra trong vô thức, nàng làm mà không hề hay biết, điều đó càng khắc họa rõ nét hơn nỗi thất vọng tràn trề của nàng. Dù ở ngoài hiên hay trong rèm nàng vẫn cô đơn, lẻ loi hết sức. Nàng mong ngóng tiếng con chim thước báo tin nhưng chim thước cũng im ắng. Đêm khuya chỉ có một mình, nàng càng khao khát sự sẻ chia hơn bao giờ hết, nhưng ngọn đèn vô tri, vô cảm không thể an ủi, chia sẻ với nàng: Đèn có biết dường bằng chẳng biết/ Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Hình ảnh “Hoa đèn kia với bòng người khá thương” càng đậm tô hơn nữa sự cô đơn, tội nghiệp của người chinh phụ.
Từ nỗi khát khao đồng cảm chuyển sang sự chờ đợi dài đằng đẵng: Gà eo óc gáy sương năm trống/ Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên/ Khắc giờ đằng đẵng như niên/ Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. Tiếng gà eo óc thê lương, càng vang vọng hơn trong không gian đêm khuya tĩnh mịch vắng vẻ. Tiếng gà ấy vừa là sự chảy trôi chậm chạp của thời gian vừa là sự giày vò trong lòng người chinh phụ, nghe tiếng gà, lòng lại càng thổn thức chờ mong hơn gấp bội. Nhìn ra ngoài đêm tối mịt mùng, bóng hòe phất phơ cứ đều đặn lay động qua trước mắt, càng khiến cho thời gian chậm chạp, nặng nề trôi hơn. Thời gian tâm lí được nhân lên gấp bội: Khắc giờ đằng đẵng như niên và mối sầu trong lòng người lẻ loi, cô đơn trải ra một không gian vô tận tựa miền biển xa. Trong bốn câu thơ tác giả đã sử dụng thành công bốn từ láy vừa gợi âm thanh vừa gợi nên sự giày vò trong tâm trạng (eo óc) vừa diễn tả sự hoang vắng (phất phơ), lại gợi nên không gian thời gian vô tận (đằng đẵng, dằng dặc), qua đó đã diễn tả được nỗi cô đơn, sầu muộn trong vô vọng của người chinh phụ.
Khổ thơ thứ tư diễn tả những gắng gượng của người chinh phụ để trốn khỏi sự bủa vây của nỗi cô đơn, nhưng càng cố trốn tránh nỗi cô đơn lại càng ôm chặt lấy nàng. Nàng lấy gương soi trang điểm để quên nhưng nhìn thấy mặt mình nàng lại không cầm nổi nước mắt “lệ lại châu chan”. Nàng đốt hương mong lấy lại sự thư thái trong tâm hồn nhưng “hồn đà mê mải”, nỗi cô đơn sầu muộn lại càng đậm sâu hơn. Và đau đớn nhất là khoảnh khắc: Sắt cầm gượng gảy ngón đàn/ Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng. Đàn cầm và đàn sắt khi hòa âm với nhau thường được ví với sự sum vầy, hòa hợp yên ấm của hai vợ chồng. Dây uyên biểu tượng cho lứa đôi gắn bó, tất các sự vật đều có đôi có lứa, chỉ riêng mình nàng là cô đơn lẻ bóng. Những biểu tượng ấy càng khơi sâu nỗi cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ. Ba từ “gượng” diễn tả sự trớ trêu, xót xa trước cảnh ngộ của chính mình. Dây đàn đứt và chùng đều là dấu hiệu của điềm xấu trong tình yêu, bởi vậy, nỗi kinh sợ của người chinh phụ khi gượng gảy đàn trở thành một nỗi ám ảnh về sự cô đơn lẻ loi trọn kiếp của người cô phụ.
Khổ thơ cuối cùng diễn tả nỗi khao khát gửi gắm tình cảm thương nhớ sâu nặng của người chinh phụ đến nơi chiến trường xa xôi. Nàng gửi tình cảm qua ngọn gió đông (gió xuân) nhưng gió đông yếu ớt không đủ sức mang nỗi nhớ thương nghìn vàng của nàng đến nơi non Yên xa thẳm. Người chinh phụ lại phải đối mặt với thực tế và thấm thía bi kịch cá nhân:
“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”.
Nỗi niềm chìm vào cô đơn, chìm vào không gian lạnh lẽo, quạnh vắng, cảnh vật ảm đạm thê lương như đang bủa vây lấy người chinh phụ. Nàng đang đớn, tuyệt vọng đến cùng cực.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn từ tinh tế, hình ảnh giàu sức biểu tượng, đoạn trích đã diễn tả thật tinh tế và chính xác những cung bậc cảm xúc của người chinh phụ, đó là nỗi cô đơn, lẻ loi vô cùng. Đoạn trích có ý nghĩa đề cao hạnh phúc cá nhân đồng lời là lời tố cáo, lên án chiến tranh phi nghĩa đã hủy hoại hạnh phúc của con người.
-/-
Hy vọng những bài mẫu trên đây mà Đọc tài liệu đã sưu tầm và tổng hợp sẽ giúp ích các em khi làm đề văn phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Ngoài ra, doctailieu.com còn chọn lọc nhiều bài văn mẫu lớp 10 khác phục vụ việc học văn của các em. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!