Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Đọc Tài Liệu

Bài viết này chắc chắn sẽ giúp bạn viết được bài văn phân tích Người lái đò sông Đà hay và đạt điểm cao.

Những nội dung bài viết giúp bạn tham khảo

  • Hướng dẫn cách làm
  • Mẫu dàn ý chi tiết
  • Những bài làm văn đặc sắc nhất
  • Những câu hỏi thường gặp về Người lái đò sông Đà

Cùng bắt đầu tham khảo:

Hướng dẫn phân tích Người lái đò sông Đà

1. Phân tích yêu cầu và hệ thống luận điểm

a. Phân tích yêu cầu của đề

– Yêu cầu của đề bài: phân tích nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Người lái đò sông Đà

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong văn bản tác phẩm.

– Phương pháp lập luận chính: Phân tích.

b. Hệ thống luận điểm phân tích

Những luận điểm chính cần triển khai khi phân tích Người lái đò sông Đà:

– Luận điểm 1: Phân tích ý nghĩa của lời đề từ.

– Luận điểm 2: Hình tượng dòng sông Đà (nét hung bạo, nét trữ tình)

– Luận điểm 3: Hình tượng người lái đò sông Đà (về lai lịch, tài năng và tâm hồn, công việc,…)

– Luận điểm 4: Khái quát phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, giá trị nội dung của tác phẩm.

2. Dàn ý phân tích bài Người lái đò sông Đà

Mẫu dàn ý chi tiết giúp bạn nắm được những nội dung chính để hoàn thành bài văn.

Mở bài

– Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là một nhà văn tài hoa uyên bác, có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm mĩ.

– Khái quát về tác phẩm Người lái đò sông Đà:

Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc.

Thân bài

a. Khái quát về hoàn cảnh sáng tác

– Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc.

– Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho ông nguồn cảm hứng sáng tạo trong công cuộc tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là “chất vàng mười”.

b. Ý nghĩa lời đề từ

– “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”: thể hiện cảm xúc trào dâng mãnh liệt trước tiếng hát, vẻ đẹp của dòng sông.

– “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: gợi cho người đọc cảm nhận ấn tượng về sự độc đáo, của một cá tính mạnh mẽ, của một cá tính riêng biệt của dòng sông Đà, đó là con sông hung bạo.

c. Hình tượng dòng sông Đà

+ Dòng sông “hung bạo”

– “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”.

– Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.

– Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”.

– Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:

+ Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu … cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).

+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “hất hàm”, “oai phong”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”.

+ Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:

  • “Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”
  • “Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào”
  • “còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết cả.”

⇒ Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người.

+ Sông Đà trữ tình

– Từ trên cao nhìn xuống dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm kiều

– Từ tầm xa bao quát có khi nhà văn nhìn thấy nó bình dị như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”

– Màu sắc sông nước: mùa xuân có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ → Sự thay đổi màu sắc qua các mùa mà mùa nào cũng đẹp, một cách nhìn thật nhiều chiều và đa dạng.

– Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sông Đà như một “cố nhân”, có ánh sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”, …

→ Cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.

– Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”, …

→ Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông.

⇒ Dưới ánh mắt của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một dải lụa hiền hòa giữa vùng núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ.

d. Hình tượng người lái đò sông Đà

– Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu nghêu… chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.

– Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.

– Tài năng và tâm hồn:

+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ… những luồng nước”,…

+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo…”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác…”

+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.

e. Khái quát phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

– Phong cách của Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”, trong mỗi trang viết của mình, Nguyễn Tuân luôn muốn thể hiện sự tài hoa, uyên bác của bản thân.

– Chất tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân được thể hiện ở:

  • Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện thẩm mĩ
  • Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ
  • Vận dụng tri thức, vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo dựng hình tượng

– Là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cách tuyệt mĩ…

– Kho từ vựng phong phú, tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, có phối âm, phối thanh linh hoạt, tài ba…

f. Giá trị nghệ thuật của đoạn trích

– Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt

– Vận dụng nhiều tri thức văn hóa và nghệ thuật

– Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị

– Bút pháp: kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn

– Ngôn ngữ hiện đại kết hợp với ngôn ngữ cổ xưa.

Kết bài

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

– Cảm nhận của em về đoạn trích.

Bài phân tích Người lái đò sông Đà đặc sắc nhất

Tây Bắc đã trở thành vừng đất hứa thi ca nghệ thuật những năm 58 – 60 khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn, nhà thơ đến với nơi đây để tìm cho mình những nguồn cảm hứng mới. Trong văn giới cùng thời điểm lúc bấy giờ, Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập ” Tùy bút sông Đà” với linh hôn là “Người lái đò sông Đà”.

Là một nhà văn đi theo chủ nghĩa xê dịch, dấu chân của Nguyễn Tuân đã đi khắp mảnh đất hình chữ S này nhưng ông lại chọn Tây Bắc làm nơi cho ra đời đứa con đẻ tinh thần này của mình là bởi vì nơi đây mới thỏa mãn nhãn quang sáng tác của ông.

Tùy bút sông Đà là những trang văn được viết bằng ngôn ngữ điêu luyện, hình ảnh con sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình.

Hình tượng dòng sông Đà

Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế này:

“Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”.

Để thấy rằng cuộc sống mưu sinh trên dòng sông hùng vĩ kiêu ngạo ấy phải vất vả, gian lao biết mấy, có lẽ là nơi chỉ dành cho những chàng trai to khỏe, đủ can đảm mà chiến đấu với con sông mang tâm tình bất định ”lúc van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gàn ra mà chế nhạo như một con thú với tiếng sống như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”. Ấy thế mà chẳng như chúng ta hằng tưởng tượng, người lái đò ấy lại là một ông lão.

Phải, là một ông lão đã tầm bảy mươi ở độ tuổi thất thập cổ lai hi, với bao người là độ tuổi được an hưởng tuổi già, chứ chẳng phải lênh đênh kiếm kế mưu sinh trên sông nước hiểm trở.

Hình tượng người lái đò Sông Đà

Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò đầy xuất sắc với hai vai trò nghệ thuật vừa làm chiến sĩ can trường trên mặt trận sông nước với vũ khí duy nhất là mái chèo, vừa là nghệ sỹ tài hoa hàng ngày vẫn viết nên những bản cùng ca tuyệt đẹp về sức mạnh của những con người lao động.

Theo Nguyễn Tuân, ông lái đò đã xuôi ngược trên sông Đà không dưới trăm lần, trong đó đã có tới sau mươi lần ông cầm lái chính. Hình ảnh ông lái đò sông Đà hiện lên với một vẻ đẹp bề ngoài đầy phong sương có thể in hẳn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông “Tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhăn giới vời vợi nhìn về một bến xa nào đó…” được biệt trên ngực ông có nhiều “củ nâu” đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà mà Nguyễn Tuân đã dí dỏm ví nó như là “những huân chương lao động siêu hạng”.

Ông lái đò không phải là người an phận, ngược lại ông thích đương đầu với khó khăn với những pha hành động gay cấn, thế nên ông thích đi qua những ghềnh thác khó nhằn của con sông Đà, ông bảo rằng ”chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dại tay chân và dễ buồn ngủ”.

Dù tuổi đã cao nhưng ông luôn mang một tâm hồn khỏe, trẻ, hiếu chiến, bản tính mạnh mẽ, tin yêu cuộc sống, cùng sự gắn bó với nghề nghiệp và con sông Đà hùng vĩ, công việc của ông trở thành niêm đam mê bất diệt; là niềm vui trong cuộc sống lao động vốn vất vả của ông. Sông Đà trong lòng ông lái đò như một bản thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng, thuộc đến “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, sự tài hoa tỉ mẩn ấy được tác giả ví như “đóng đanh vào lòng”.

Ông lái đò cũng nắm vững “binh pháp của thần sông thần núi” như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, lại như một nghệ sỹ chuyên nghiệp nắm rõ mặt trận nghệ thuật đầy cam go của ông mà đã theo đuổi gần hết đời người.

Cảnh vượt thác

Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt đèo ấy, đòi hỏi người chiến sỹ phải cực kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường của con sông, bởi chỉ sơ suất một chút thôi thì đến mạng cũng chẳng còn nói gì đến chuyện làm một người tài hoa trên con sông Đà.

Bằng kinh nghiệm dày dặn và lòng dũng cảm, một tinh thần vững trãi cùng lòng tự tin đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, phải tránh né để qua ải đầu tiên, ông lái đò bước vào “trùng vi thạch trận thứ nhất” đầy căng thằng.

Có những lúc trúng đòn hiểm, đau đớn đến “mặt méo bệch đi, nhưng ông làm sao dám buông lỏng, chỉ cố nhịn đau mà “kẹp chặt lấy cuống lái”, bình tĩnh vượt qua ải thứ nhất, không phút ngưng nghỉ, ở trận thứ hai, ông thay đổi chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”.

Vòng thứ hai này có phần nguy hiểm hơn trước khi “tăng thêm nhiều của tử để lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn”. Thế là xong ải thứ hai nhanh và chuẩn xác. Nói nghe thì dễ nhưng có ai đủ bình tĩnh và tay chèo điều khiển điêu luyện nhắm trúng vào cửa sinh như ông lái đò sông Đà? Còn một cửa ải cuối cùng nữa, ải này ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở cửa ba này lại là ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác “nhưng ông mạnh dạn phóng thẳng thuyền chọc thủng giữa cửa đó”.

Vậy là qua hết ba ải, ải nào cũng nguy hiểm, con sông trở lại với vẻ thanh bình.

Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go của ông lái đò sông Đà, ta cảm tưởng vừa xem lại bộ phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng phút giây ông lái đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người anh hùng lao động hàng ngày chiến đấu với thiên nhiên trong nguy hiểm đã làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo.

Phong cách và giá trị nghệ thuật của đoạn trích

Hình tượng ông lái đò được tác giả xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sỹ anh hùng, vừa là nghệ sĩ tài ba đã viết lên bản hùng ca tuyệt đẹp về cuộc sống lao động, về nghệ thuật chèo lái trên con sông Đà.

Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ thuật đầy mới mẻ, ông cho rằng nghệ thuật không chỉ là những người nghệ sỹ với những hình tượng thơ mộng, mà còn là những người lao động đạt đỉnh cao điêu luyện trong chính nghề nghiệp của mình, khi đó thì cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là nghệ thuật lao động.

Viết về người lái đò sông Đà, viết về vùng đất của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn cảm xúc yêu thương tha thiết với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động thì ông lái đò hiện lên càng anh hùng ngoan cường trong lao động, ta lại càng thấy được bản lĩnh, tấm lòng và tài năng của Nguyễn Tuân. Và Nguyễn Tuân đã làm tròn sứ mệnh một nhà văn, ông đã góp phần mang đến cho thế giới những sắc màu mới. Bước vào thế giới của Nguyễn Tuân, ta ngỡ như bước vào một chân trời mới với màu sắc huyền bí, hấp dẫn và độc đáo.

TOP 5 bài văn mẫu hay phân tích Người lái đò sông Đà

Dưới đây là #4 bài văn mẫu hay nhất được chúng tôi tuyển chọn và biên soạn lại để giúp các bạn tham khảo:

1. Bài văn mẫu chuyên sâu phân tích Người lái đò sông Đà

Hơn mười năm đã trôi qua, kể từ khi Nguyễn Tuân vào cõi vĩnh hằng; có lẽ con người “suốt đời đi tìm cái đẹp” ấy không phải băn khoăn hối tiếc điều gì nữa. Bởi những gì ông đã cống hiến cho nền văn học Việt Nam hiện đại không ai thay thế được. Đọc tuỳ bút Người lái đò Sông Đà của ông, ta càng thấm thía lời nhận xét của Anh Đức: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng; một nhà văn độc đáo, vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”.

Có thể nói Nguyễn Tuân là người viết tùy bút nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Với các tập Tuỳ bút I (1941), Tuỳ bút II (1943), ông đã làm sống lại khái niệm tuỳ bút trong văn học, đồng thời “định nghĩa” lại thể tùy bút. Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) đã từng nêu lên khái niệm về thể loại này trong Vũ trung tuỳ bút. Theo ông, tuỳ bút đề cập đến những vấn đề rất đa dạng, không theo một trình tự nào, từ chuyện thân thế, gia đình đến chuyện xã hội, thời cuộc, lịch sử… Tuỳ theo hứng thú, sự quan tâm của người viết mà thể hiện các đề tài ấy.

Trong văn học hiện đại, tùy bút là khái niệm được dùng để chỉ những tác phẩm viết một cách phóng khoáng, tự do, theo dòng suy nghĩ liên tưởng của người viết. Tùy bút cũng là kí, là ghi chép, nhưng không chỉ ghi chép sự việc mà trong đó có cả suy nghĩ, cảm xúc người viết khi tiếp xúc với thực tế. Theo “định nghĩa” mới của Nguyễn Tuân, phần trình bày suy nghĩ, nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng của người viết chiếm một tỉ trọng lớn, do đó chất trữ tình thường khá đậm nét. Người lái đò Sông Đà thể hiện đầy đủ những điểm đặc sắc nghệ thuật tuỳ bút của Nguyễn Tuân. Có thể nói thể tuỳ bút đã tạo đất cho nhà văn dụng võ, ngược lại, với Nguyễn Tuân, thể tuỳ bút cũng đã có một bước phát triển mới.

Trước hết phong cách nghệ thuật tùy bút của ông thể hiện những trang viết tài hoa và uyên bác. Tài hoa và uyên bác trong kể và tả. Ở Nguyễn Tuân, kể và tả đều kĩ càng, tỉ mỉ, có ngọn ngành, thông kim bác cổ. Mỗi liên tưởng, liên hệ trong tư duy, tư tưởng rất rộng, rất sâu. Cho nên những trang viết của ông đưa lại cho người đọc nhiều kiến thức văn hoá. Chính vì thế, đến với thiên tuỳ bút Người lái đò Sông Đà, ta như được chứng kiến một công trình khảo cứu công phu, một áng văn trữ tình giàu tính thẩm mĩ về sông Đà và những gì sinh sông trên con sông đó. […]

Sông Đà, như tôi biết qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, có một vẻ đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình, được thể hiện qua cái nhìn từ nhiều góc độ của tác giả. Đặc biệt là bằng vốn từ vựng phong phú và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của ông. Nói như nhà văn Anh Đức: “mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút như có đóng một dấu triện riêng”. Tại sao khi ta gọi Nguyễn Tuân là “một bậc thầy của ngôn từ, ta không hề thấy ngại miệng”? Bởi lẽ đọc Người lái đò Sông Đà của ông ta nhận thấy văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng rẫy sự sống. Sức nóng trong ngôn ngữ của ông phát ra từ mọi hướng. Nhà nghệ sĩ “độc đáo vô song” ấy đã sáng tạo ra hàng loạt từ ngữ mới cho từ điển tiếng Việt.

Chỉ trong vài trang kí, mà có biết bao động từ trong đó. Tả tiếng thác nước, Nguyễn Tuân đem lại cho người đọc cả một hệ thống động từ được xếp cạnh nhau theo cấp tăng tiến: Lúc đầu là “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên” rồi “nghe như là oán trách”; “van xin”, “khiêu khích”; “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi nó “rống lên”, “lồng lộn”, “gầm thét”. Ngôn ngữ sinh động lại được kết hợp một cách tài tình khiến ta như cảm nhận cái hồn thác đang gầm lên giận dữ. Hết thác rồi đến đá, đội quân đá đang mai phục, sẵn sàng dưới sự chỉ huy của thác. Chúng đang chờ “có chiếc thuyền nào xuất hiện” là “nhổm cả dậy để vồ lấy”.

Thật thú vị khi chứng kiến sự bài binh bố trận của những hòn đá “nhăn nhúm méo mó” kia. “Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”. Trận địa đá gồm “hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở” để dụ đối phương đi vào sâu nữa” rồi “đánh khuýp quật vu hồi lại”. Nếu chọc thủng được tuyến hai thì nhiệm vụ của những boong ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên”. Hấp dẫn nhất phải kể đến cuộc chiến đấu một mất một còn giữa người lái đò và thác sông Đà. Bằng cái nhìn chứa đựng đầy tính điện ảnh cũng như hiểu biết uyên bác của mình, Nguyễn Tuân đã cho người đọc xem một đoạn phim bằng ngôn từ có một không hai: “Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện” và “hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt” trông “y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. “Một hòn khác” thì “thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”.

Đọc thêm:  Soạn bài Quan hệ từ | Ngắn nhất Soạn văn 7 - VietJack.com

Trí tưởng tượng sinh động của tác giả khiến người đọc vô cùng ngỡ ngàng và thú vị. Trận chiến đã bắt đầu “Trùng vì thạch trận vòng thứ nhất” có “mặt nước hò la vang dậy quanh mình”, “sóng nước như thể quân liều mạng” “có lúc chúng đội cả thuyền lên”. Nào là “đòn độc hiểm nhất, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm”… Trùng vi thạch trận thứ hai không kém phần ác liệt. Có nhiều “cửa tử” để hòng đánh lừa con thuyền. Dòng nước cuồn cuộn của sông Đà được Nguyễn Tuân ví như “hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Ta có thể thấy sự biến hóa khôn lường trong cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Đoạn trên, ông tả tiếng thác như tiếng “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn” thì đến đoạn sau dòng thác hiện lên như “hùm beo”.

Cuộc chiến ở cửa ải thứ hai với ưu thế nghiêng hẳn về người lái đò. Dường như Nguyễn Tuân ưa dùng những động từ sắc lạnh. Ông lái đò hiện hình như một dũng tướng hiên ngang xông pha trận mạc “nắm chắc lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, “bám chắc”, “phóng nhanh”, “lái miết”… Niềm vui hân hoan của tác giả khi ông lái vượt qua được vòng chiến thứ hai như lan tỏa trong những câu văn tiếp theo: “Chỉ còn vẳng lại tiếng hò của sóng thác. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Tâm hồn của người đọc như bị cuốn theo lối kể và tả đầy hấp dẫn của người viết. Chi tiết “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng” của “cái thằng đá tướng” khiến người đọc như cùng cảm nhận sự khoái chí của tác giả.

Trùng vi thứ ba diễn ra nhanh hơn”. Con thuyền vút qua cổng đá mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Cuộc chiến kết thúc “thế là hết thác”. Dòng sông đột ngột hiện lên thanh bình, hiền hòa với sự bắt đầu bằng một hình ảnh vừa chân thực, vừa lãng mạn: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Câu văn miêu tả rất sinh động những đám bọt trắng xóa của dòng thác rơi từ trên cao và khi chạm đến cái đích cuối cùng là dòng sông thì vỡ ra, tạo thành âm thanh “xèo xèo tan”. Nó có thể tan trong trí nhớ người lái đò bởi “cuộc sống của họ ngày nào cũng chiến đấu với sóng nước Sông Đà dữ dội”, ngày nào cũng biết đến cảm giác “xèo xèo tan” của sóng thác. Nhưng âm thanh ấy in sâu vào tâm trí người đọc. Dòng thác đổ qua miền nhớ và để lại những nét chạm khắc không thể nào quên.

Sức nóng trong ngôn ngữ Nguyễn Tuân còn phát ra từ màu sắc con sông Đà mà ông miêu tả. Tất cả đều là gam màu nóng chói, và thể hiện một óc quan sát, liên tưởng, so sánh vô cùng tinh tế. Con sông Tây Bắc khi thì được miêu tả như “một cái mặt giếng mà thành giếng xây bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khôi đúc dày, khôi pha lê xanh như sắp vỡ tan”; khi thì “xanh ngọc bích” vào mùa xuân, “lừ lừ chín đỏ” vào mùa thu. Có lúc sông như “miếng sáng loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi”. Cái “dấu triện riêng” mà mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi câu văn Nguyễn Tuân đều được in vào đấy, phải chăng chính là kho ngôn ngữ vô cùng phong phú và đặc sắc của ông? Bởi có ai nhìn thấy “cái mặt xanh lè, tiu nghỉu” của đá; cái màu “lừ lừ chín đỏ” của sông, nghe thấy âm thanh “xèo xèo tan” của bọt thác?

Gọi Nguyễn Tuân là “bậc thầy ngôn ngữ” quả là không sai. Chỉ nói về con sông Đà mà ông đã sử dụng bao nhiêu từ đồng nghĩa. Khi thì gọi sông Đà là “con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình”, khi thì bảo “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, lúc lại như “áng tóc trữ tình”… Ông còn gọi sông Đà là “cố nhân”, là “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, rồi “một áng tóc trên mảng đầu Tây Bắc”, “một con cá bị chúa đất từng vùng đem cắt ra từng khúc nhỏ”… Chỉ riêng điều đó thôi cũng cho ta thấy vốn từ vựng của Nguyễn Tuân vô cùng phong phú. Nguyễn Tuân viết như lấy chữ từ trong túi ra, thổi vào mỗi chữ một linh hồn sống và tạo nên những trang viết tài hoa.

Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến chủ nghĩa xê dịch. Con người thích “chơi ngông” ấy “đi không cần mục đích, không cần đến nơi, cốt là cứ được lăn cái vỏ mình mãi mãi trên mặt đất này” (Nguyễn Đăng Mạnh). Mặc dù thế, văn chương là tâm huyết thực sự của đời ông. Và điều làm nên linh hồn của những áng văn xê dịch ấy là tấm lòng gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước của ông. Tôi chưa đọc được nhiều những trang văn của Nguyền Tuân, nhưng ấn tượng của tôi về ông gói trọn trong chữ “ngông” độc đáo, vô song ấy.

Dù trước hay sau cách mạng thì vẫn là con người ấy. Đằng sau sự uyên bác về kiến thức, sự cầu kì, tỉ mỉ trong từng câu chữ, là một tấm lòng tha thiết yêu quê hương xứ sở. Không có tấm lòng ấy, không thể nhìn thấy con sông Đà như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai”. Không yêu quê hương, làm sao ông có được nhận xét: “người cố nhân ấy biết mình lắm bệnh, lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Ông đâu chỉ miêu tả sông Đà, với ông “áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải” ấy như một cố nhân. Từ lòng yêu nước tha thiết cùng với tài hoa độc đáo của mình, Nguyễn Tuân đã để lại cho đời những trang văn tuyệt bút.

Trở lại nhận xét của Anh Đức về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, người đọc tự hỏi thế nào là phong cách nghệ thuật? Đó hẳn phải là một cái nhìn mới mẻ, một sự khám phá độc đáo, có tính phát hiện đối với đời sống. Cái nhìn mới mẻ ấy được thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật đặc sắc mang dấu ấn riêng, vẻ đẹp riêng của mỗi nhà văn. Những nhà văn thực tài mới có phong cách. Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách sâu sắc và độc đáo. Sự độc đáo của phong cách Nguyễn Tuân thể hiện ở những tư tưởng mới lạ được nhìn nhận và khám phá từ những gì rất bình thường, giản dị, thậm chí ngay cả ở những gì người đời coi là “tầm thường”, thấp kém. Những tư tưởng mới mẻ ấy lại được thể hiện và diễn đạt bằng một kho tàng ngôn ngữ hết sức phong phú và linh hoạt với nhiều sáng tạo trong dùng từ, đặt câu. Cũng như Nguyễn Du đã làm giàu và làm sang cho ngôn ngữ dân tộc bằng Truyện Kiều, Nguyễn Tuân cũng thế. Những trang văn của ông không chỉ thấm đượm linh hồn quê hương mà còn thể hiện sự giàu có của tiếng nói dân tộc Việt. Có nhà nghiên cứu nhận xét rất đúng về ngôn ngữ Nguyễn Tuân, đó là “sự giàu có và giá trị tạo hình cao”, “như muốn ganh đua cùng tạo hoá”.

Nhà văn Mắc-xim Goóc-ki đã từng nói: “con người, tiếng ấy thật tuyệt điệu, nó vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao”. Sự uyên bác, tài hoa, đầy sáng tạo bất ngờ trong những trang văn của Nguyễn Tuân nồng ấm một tình yêu và lòng tự hào về con người. Từ hình tượng Huấn Cao “Vang bóng một thời” đến người lái đò trên sông Đà có một sự chuyển biến trong tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Song cả hai nhân vật đều có điểm chung: họ đều là những người có phẩm chất nghệ sĩ, chiến sĩ, vẻ đẹp thăng hoa của con người. Họ đều là sản phẩm của sự kết hợp cái Tâm và cái Tài của người viết. Nhà nghệ sĩ lớn ấy đi săn tìm cái đẹp suốt cả cuộc đời để rồi mang lại cho ta “chất vàng mười” của nghệ thuật.

Đọc Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, chúng ta thực sự bị cuốn hút vào dòng thác cuồn cuộn của sông chữ, sông đời; thực sự như bị lạc vào “bờ sông hoang dại như một nỗi niềm cổ tích” ngày xưa. Từng câu, từng chữ mà ông đặt lên trang giấy là cả một quá trình sáng tạo công phu, cẩn trọng và thiêng liêng. Nguyễn Tuân thích sáng tạo, độc đáo cả trong đời thực lẫn trong văn chương. Ông thích Đốt-xtôi-ép-xki và dường như chính ông là một minh họa cho cái định nghĩa nổi tiếng của Đốt: “Tài nghệ vĩ đại nhất của nhà văn là ở chỗ biết xóa bỏ”. Phải chăng trong suốt cuộc đời lao động nghệ thuật cần cù, miệt mài, trau chuốt từng câu, từng chữ, Nguyễn Tuân đã biết tự “xóa bỏ” để tồn tại và trở thành một nghệ sĩ lớn.

Nguyễn Tuân đã ra đi vào ngày 28 tháng 7 năm 1987. Biết bao nhớ tiếc, ngẩn ngơ đã để lại trong lòng người đọc. “Không biết chừng nào lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ như có đóng một dấu triện riêng”. Đến bao giờ mới có một nhà văn như thế?

2. Văn mẫu phân tích Người lái đò sông Đà bài số 2

Trong thế kỷ XX, Nguyễn Tuân là một trong những tên tuổi nhà văn lớn của Việt Nam. Qua các tác phẩm nổi tiếng như “Vang bóng một thời” và “Một chuyến đi”, ông đã gây được tiếng vang lớn với độc giả giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám. Tuy nhiên, sau Cách mạng Tháng Tám, ông đã chuyển hướng qua thể loại tùy bút và sáng tác thành công nhất của ông chính là tác phẩm tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tùy bút đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, không chỉ bởi hình tượng con sông Đà “hung bạo, trữ tình” mà còn bởi hình tượng của người lái đò vững chãi trên những thác nước dữ dội.

Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Tuân được xuất bản trong tập Sông Đà (1960). Tác phẩm là kết quả của những chuyến đi trải nghiệm và viết về vùng Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp của ông. Tùy bút mang đậm nét đặc trưng phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Với cây bút tài hoa của mình, nhà văn đã khám phá và ca ngợi, tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người lao động Việt Nam.

Nguyễn Tuân đã mở đầu thiên tùy bút bằng việc trích dẫn hai câu thơ làm đề từ: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” và “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Thông qua hai câu đề từ này, nhà văn đã gián tiếp thông điệp đến người đọc về hai đặc điểm trái ngược trong tính cách riêng của con sông: dữ dội, hiểm ác – kiều diễm, thơ mộng. Trong mắt của những người thích khám phá, thiên nhiên sông Đà trở thành một bản thể phức tạp, mang trong mình những tính cách đa chiều. Ban đầu, ta có thể nhận thấy sự hùng vĩ, dữ dội và nguy hiểm của con sông Đà.

Theo quan điểm của Nguyễn Tuân, con sông Đà có lẽ là một con sông với nhiều thác ghềnh, vực xoáy và cực kỳ nguy hiểm đối với con người. Tới mùa lũ, nó trở thành một “người dì ghẻ” độc ác, một con quái vật đáng sợ và “kẻ thù số một” của con người. Sự hùng vĩ của con sông Đà được thể hiện trước tiên qua cảnh đá bờ sông dựng đứng thành vách, những bức thành đá cao vút chẹt lấy lòng sông hẹp. Độ hẹp của dòng sông được nhà văn mô tả đa dạng giác độ: “mặt sông chỉ khi ngọ mới có ánh nắng mặt trời”, “chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”… đây thật sự là những chi tiết thú vị. Sức hấp dẫn thông thường không thể so sánh được với những so sánh chính xác, tinh tế, phong phú, bất ngờ và lạ lùng như thế.

Nguyễn Tuân luôn khám phá sâu vào sự phong phú của ngôn ngữ để mang đến cho người đọc không chỉ trải nghiệm thị giác và cảm xúc mà còn những tưởng tượng thú vị. Cái khủng khiếp, dữ dội và nguy hiểm của con sông Đà tiếp tục được Nguyễn Tuân mô tả tới tận cùng trong những đoạn mặt ghềnh Hát Loong: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn… Tiếp theo đó là những xoáy nước hút mạnh “Hút nước xoáy nước tít đáy lừ lừ như cánh quạ đàn… sâu như tiếng bê tông thả xuống”, “Tiếng nước thở và kêu như cống cái bị sặc”. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân không dừng lại ở đó mà tiếp tục tìm ra những cảnh tượng gây ấn tượng mạnh cho người đọc.

Đó là cảnh thác nước: “Tiếng thác nước nghe gần mãi lại réo to mãi lên,…nghe như oán trách rồi lại như van xin…Thế rồi nó bỗng rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre, nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bừng,..”. Nếu như ở đoạn trên nhà văn dùng ngôn ngữ điện ảnh để diễn tả sự khủng khiếp mà đầy lý thú của những xoáy hút nước thì ở đoạn này ta nghe như có âm thanh của bản nhạc giao hưởng, dạo đầu bằng những tiếng nỉ non của dòng thác, rồi nghe như oán trách, van xin, rồi lại như chế nhạo, khiêu khích.

Thế rồi bỗng phóng to hết cỡ dồn dập, bừng bừng gào thét hỗn độn tất cả các loại âm thanh của núi rừng, thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của cơn phấn khích dữ dội, man dại và cuồng loạn bởi những âm thanh đập ầm ầm vào đá. Để nói cho tận cùng tình dữ dội, hiểm ác của con sông, Nguyễn Tuân tiếp tục đưa người đọc đến khúc ngoặt của sông và chân trời đá: “đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Chúng ngỗ ngược, đứng, ngồi, nằm tùy sở thích. Dường như từ ngàn xưa, sông đã giao việc cho chúng phải bày binh bố trận, có hàng tiền vệ, tuyết giữa và hậu vệ, có cửa sinh, cửa tử, biết dụ biết lừa, biết đánh, biết đá, biết hỏi và biết cả thách thức. Phối hợp với đá là thác nước, chúng hò la vang động làm thanh viện cho đá, có khi liều mạng sóng nước ùa vào làm “bẻ gãy cán chèo, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng lật ngửa đánh đòn hiểm…”. Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ của nhiều ngành khác nhau: võ thuật, thể thao, quân sự để làm sống dậy một con sông. Nhà văn xoay ngắm ở nhiều chiều, nhiều bề: cao – rộng, trên bề mặt – dưới lòng sâu, đào xới đến tận cùng bản chất dữ dằn, hiểm ác để chứng tỏ sông Đà – con thủy quái – kẻ thù số một của con người.

Sông Đà làm một bản thể chính vì vậy mà bên cạnh sự hùng vĩ, dữ dằn của con sông, sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.

Nguyễn Tuân không bằng lòng với những tri thức hời hợt, quen nhàm khi viết về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà. Với những trang văn đầy cảm xúc, ông luôn dồn hết tâm huyết, dụng công khó nhọc để mang đến cho người đọc sự hiểu biết phong phú, toàn diện về một con sông, một vùng đất giàu giá trị vàng. Đoạn văn này không còn sự hiện diện của thác, ghềnh, đá mà sông Đà đã trở nên hiền hòa và thơ mộng. Lời văn của Nguyễn Tuân đột nhiên thay đổi, tràn đầy tình cảm với ngôn ngữ giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa. Người đọc có cảm giác như đang cùng Nguyễn Tuân trên một chuyến bay quan sát từ trên không “từng nét sông tã ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình” và nhìn thấy Tổ quốc thật bao la, rộng lớn. Cũng từ đó, bậc du tử vảy bút vẽ một bức tranh thủy mặc chỉ trong một câu văn: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Không có so sánh nào có thể đẹp hơn dòng chảy của sông Đà với mái tóc của một mĩ nhân.

Màu sắc của con sông Đà còn trữ tình và đáng yêu hơn nữa. Nguyễn Tuân cũng đã nhận ra sự thay đổi màu sắc của sông Đà theo từng mùa, mang đến vẻ đẹp riêng biệt. “Mùa xuân, dòng sông xanh như ngọc bích,” và “dưới ánh nắng mùa thu, sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bần đi vì rượu bữa”. Cách nhân hóa và so sánh này thể hiện tài nghệ của nhà văn khi miêu tả màu nước của sông Đà. Với tư cách là những nhà văn luôn khám phá và tìm kiếm vẻ đẹp, Nguyễn Tuân và đồng nghiệp không ngại khó khăn và gian khổ để vượt qua đèo, lội suối để đến với miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc, để khám phá “vàng mười” của núi sông Tây Bắc.

Người lái đò đã đi lại hàng trăm lần xuôi ngược trên dòng sông Đà. Đối với ông, dòng sông “như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu rõ quy luật của dòng nước, ghi nhớ từng thác nước, xoáy nước, luồng lành, luồng dữ, luồng tử, luồng sinh, sắc bén và gan dạ, nhanh nhẹn tự tin như một vị tướng trong trận đồ bát quái. Nguyễn Tuân đã mô tả vẻ đẹp bên ngoài của người lái đò, người đã vượt qua tuổi bảy mươi, mái tóc bạc trắng, thân hình như một pho tượng được tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng và chất mun. Đôi cánh tay rắn chắc, mạnh mẽ và trẻ tráng “lêu nghêu như cái sào”. Đôi mắt tinh anh với tầm nhìn xa vời. Trên ngực hiện lên một số vết thương tích từ “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ và gọi đó là “Huân chương lao động siêu hạng”. Người lái đò là một “tay lái tài hoa” đã vượt qua nhiều khó khăn, đối đầu với sự sống và cái chết với “lũ đá trong ải nước”. Người đó là một nhân vật vô danh, đại diện cho những con người trên khắp đất nước Việt Nam, làm việc siêng năng và âm thầm, không ngừng đối mặt với thiên tai và nguy hiểm để bảo vệ sự sống và đất nước. Chính vì thế, hình ảnh người lái đò ngày càng trở nên lớn lao và kỳ vĩ.

Vẻ đẹp của hình tượng người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả qua ba trận thủy chiến. Cuộc đối đầu giữa một con thuyền nhỏ bé, mong manh và một người lái đò cô đơn với hàng chục con thác khổng lồ được xem như những quái vật tàn ác, biểu trưng cho sức mạnh kỳ vĩ và dữ dội của thiên nhiên. Mặc dù cuộc chiến không cân sức, nhưng người lái đò vẫn giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt vào cuống lái, kiên cường và tự tin đối mặt với tình huống, dũng cảm và quyết liệt, táo bạo trước con quái vật hung ác và giành chiến thắng.

Nguyễn Tuân đã mô tả cuộc giao tranh cam go và quyết liệt giữa người lái đò và con sông Đà hung bạo thông qua việc sử dụng kiến thức địa lí, lịch sử và ngôn ngữ thuộc các lĩnh vực thể thao, võ thuật, quân sự, kết hợp với phép nhân hóa và so sánh liên tưởng một cách khôn lường, bất ngờ, mang đến cho người đọc những đoạn văn, những bức tranh thủy chiến sống động, hấp dẫn.

Trong cuộc giao chiến lần thứ nhất, sông Đà hiện lên như một kẻ thù xảo quyệt và nham hiểm, đó là chân trời đá. Những tảng đá tại con thác này đã trải qua hàng ngàn năm, chúng đứng, nằm, ngồi một cách ngỗ ngược, tuỳ ý, biết bày binh bố trận như binh pháp của Tôn Tử. Chúng bao gồm 5 cửa trận, trong đó có 4 cửa tử và một cửa sinh, được chia thành ba tuyến: tiền, trung, hậu vệ… Chúng tấn công đòi ăn chết chiếc thuyền đơn độc nhưng người lái đò vẫn ghi nhớ khuôn mặt từng đứa.

Khi thạch trận đã được bày xong, có sự kết hợp của nước thác và sóng thác, tiếng hò vang dậy của nước đã làm nên âm thanh uy nghi của trận chiến. Đá đầy uy quyền và oai phong, tiến lùi đầy thách thức. Sóng nước đánh mạnh như quân lính liều mạng tấn công con thuyền, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền, thậm chí cố gắng túm lấy dây thắt lưng của người lái đò để lật úp thuyền giữa trận nước vang vọng trời xanh. Nhưng người lái đò vẫn nắm chặt cây chèo để không bị cuốn trôi ra khỏi cuộc chiến sóng. Sóng tấn công dữ dội, đánh đòn dày đặc, và đánh đòn âm thầm vô cùng tinh vi, nhưng người lái đò vẫn kiên cường vượt qua những vết thương, quyết tâm vượt qua cuộc hỗn chiến đó.

Đọc thêm:  Bảng Chữ Cái Tiếng Hàn Cho Người Mới Học Bản Đầy Đủ

Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ truyền hồn sống vào từng khối đá, biến chúng thành bày thạch tinh hung hãn trong cuộc giao chiến với con người. Miêu tả thiên nhiên dữ dội nguy hiểm chẳng qua là để tôn vinh sức mạnh, lòng quả cảm của con người trong cuộc chinh phục thiên nhiên. Đoạn văn thật đặc sắc, đem lại cho người đọc những cảm xúc thẩm mĩ mới mẻ, lo âu và đầy kiêu hãnh như chính mình là người trong cuộc.

Để tô đậm hình ảnh người lái đò tài hoa, trí dũng, Nguyễn Tuân tiếp tục miêu tả cuộc giao tranh lần hai. Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục được dựng dậy như “kẻ thù số một” của con người với tâm địa còn độc ác và xảo quyệt hơn. Khúc sông này nhiều cửa tử chỉ có một cửa sinh. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên lưng hổ, ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương bám chắc vào dòng nước, phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết. Bốn năm bọn thủ quân cửa ải nước liên xô ra định níu thuyền vào cửa tử. Dòng sông như con thú hoang lồng lộn đòi ăn chết con thuyền. Nó là hiện thân của sức mạnh thiên nhiên khó chế ngự. Ông lái đò nắm chắc quy luật của thần sông thần đá, không hề nao núng, luôn tỉnh táo, sáng tạo, thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời. Mặc cho Đà giang hung dữ, hiểm ác ông vẫn bám chặt dòng nước, ghì cương lái như bám chặt vào sự sống. Nguyễn Tuân thật tài hoa trong cách dùng từ, ông không dùng “ghì tay lái” mà “ghì cương lái” khiến dòng sông như con hổ, dòng thác là hùm beo và con thuyền là chiến mã, còn ông lái vụt lớn cao như kị sĩ anh hùng điều khiển con chiến mã tung hoành trên chiến trận sông Đà. Để chiến thắng, ông lái đò không chỉ dũng cảm mà còn mưu trí trong cách đối phó. Thông qua nghệ thuật ngôn từ của Nguyễn Tuân hình ảnh con người hiện lên thật oanh liệt, hào hùng.

Cuộc giao tranh thứ ba kịch tính được đẩy lên đỉnh điểm. Ngòi bút của Nguyễn Tuân trở nên bay bổng, linh hoạt bởi nhiều liên tưởng tạt ngang đầy thú vị. Trong trùng vi thạch trận thứ ba này, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội hơn, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là cửa tử. Cái luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu nên sự sống của ông đò càng hết sức mong manh. Chính giữa ranh giới của sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác thật tuyệt của ông lái. Ông cứ phóng thẳng, chọc thủng, vút qua cổng đá để rồi chiến thắng vinh quang. Thác dữ không chặn bắt được con thuyền, cuối cùng vẫn là con người chiến thắng. Sức mạnh thần thánh của tự nhiên cũng phải cúi đầu. Con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp khác trùng vi thạch trận, biểu lộ sức mạnh phi thường trong quá trình thuần phục sự hung hãn của dòng sông. Ngôn ngữ miêu tả nhanh, gọn mà nhẹ nhàng như chính ông lái đò đang lướt đi trên băng khiến người đọc vô cùng cảm phục những con người lao độ động bình thường giản dị mà rất đỗi phi thường.

Con sông Đà hung dữ là vậy ông lái đò chỉ coi nó như một chiếc lá thu. Ông đến với nó như đến với một người lắm chứng nhiều tật nhưng đằm thắm như một cố nhân. Ông hiểu nó, lắng nghe âm vang của nó, thủy chung với nó. Qua mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm đều tan biến: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Họ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh như không hề có chuyện gì xảy ra, mặc dù ngày nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt với thác dữ. Đó thực là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ.

Có thể nói, “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân là thiên tùy bút mang đậm phong cách nghệ thuật độc đáo. Tác giả đã tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều khía cạnh và phương diện thẩm mỹ, văn hóa một cách độc đáo, tài hoa và uyên bác. Dòng sông được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời được sáng tạo bởi tự nhiên và người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng tài hoa, như một nghệ sĩ. Tác giả sử dụng ngôn ngữ điêu luyện từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,… và huy động kiến thức từ nhiều lĩnh vực như địa lí, lịch sử, thể thao, võ thuật,… Tất cả đã kết hợp và tạo nên vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng của dòng sông Đà, cùng với hình ảnh đặc biệt của người lao động, bình dị nhưng cũng kì vĩ và lớn lao.

Kết thúc tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã mang đến cho độc giả một bức tranh thiên nhiên sông nước hùng vĩ, dữ dội những cũng rất trữ tình, thơ mộng. Bức tranh đó còn khắc họa hình ảnh người lao động trí dũng tài hoa trong thời đại mới – thời đại của Hồ Chí Minh.

Tham khảo thêm top 3 bài văn hay nhất phân tích hình tượng người lái đò sông Đà để thấy rõ nét bức tranh về người anh hùng lao động tài hoa được khắc họa qua ngòi bút của Nguyễn Tuân.

3. Văn mẫu phân tích Người lái đò sông Đà bài số 3

Nguyễn Tuân là một nhà tùy bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt được sự cân bằng giữa hai thời kì lịch sử trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp. Người lái đò Sông Đà rút trong tập tuỳ bút Sông Đà – một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm chất kí. Nghĩa là tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, lịch sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình tượng sống động, thành những sinh thể, những nhân vật có linh hồn. Vì vậy bài tuỳ bút không chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật: người lái đò và con sông Đà.

Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau – như tác giả nói – “hung bạo và trữ tình”. Lúc trở mặt hung bạo, nó cứ như là “kẻ thù số một” của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy chất thơ, rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một người tình, một “cố nhân” gặp thì mừng vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến.

Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân – một cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác nước dữ dội, nếu không phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai đáy biển, của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đẻm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,… Về tính cách hung bạo của con sông Đà thì từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh – Thuỷ Tinh: “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.

Nguyễn Tuân thì không thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những bức tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến người đọc cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết một phen thi tài với Tạo hoá.

Chẳng hạn, ông dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt giữa hai vách đá dựng thành cao vút “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Và đây nữa, ông tả cái hút nước ghê gớm “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn […]. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.

Dùng thủ pháp văn học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân còn chuyển sang sử dụng kĩ thuật đặc tả của điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay phim điên rồ nào đấy, ngồi vào một cái thuyền thúng cho nó hút xuống đáy cái hút nước khủng khiếp kia cả người lẫn máy thu hình: “Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre – plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”.

Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật là đã được đẩy lên đến mức kì khu, kì quái do cái động lực bướng bỉnh: không chịu lùi bước trước Tạo hoá.

Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thủy quái khổng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Khi đến gần, tiếng nó bỗng “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.

Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,… Vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương,…

Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đỗi êm ả thanh bình. Nguyễn Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc này lại như một tiên nữ giáng trần. Nó “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xuân bay trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân là dòng xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say rượu… Cảm hứng dạt dào, nhà tùy bút cũng muốn trở thành thi sĩ. Ông thấy “lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước”.

Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khoẻ, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Quả thật nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của ngôn ngữ thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: ấy là cái mà ông gọi là “màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” – thoáng hiện lên trên sóng nước sông Đà; ấy là cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi “một người tình nhân chưa quen biết” – “Dải sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.

Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm đà màu sắc cổ điển: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.

Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Có thể gọi đấy là những dòng thơ văn xuôi của nhà tuỳ bút.

Trên cái nền của con sông vừa “hung bạo” vừa “trữ tình” ấy hiện lên lừng lững hình tượng người lái đò sông Đà. Thực ra ông lái này chủ yếu xuất hiện trong cuộc vật lộn với một con thác dữ, nghĩa là ở cái phía hung bạo của sông Đà. Giả sử tác giả đặt ông ta trong khung cảnh khác – khung cảnh thơ mộng trữ tình – chắc hẳn ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi si tình trong cổ tích. Nhưng ở đây, đối đầu với con sông dữ, với một loài thủy quái, ông lái đò nhất thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên cường – một nhân vật sử thi trong thiên trường ca leo ghềnh vượt thác…

Nói đến nhân vật của Nguyễn Tuân, không thể không lưu ý đến cách tiếp cận riêng của ông đối với con người. Ấy là cách tiếp cận từ phương diện tài hoa nghệ sĩ. Ở Nguyễn Tuân khái niệm này có một nghĩa rất rộng: không chỉ thu hẹp ở những người làm nghệ thuật như thi sĩ, hoạ sĩ hay đào nương, kép hát,… mà gồm bất cứ ai đã đẩy được cái công việc mình thường làm lên đến độ cao siêu, trác việt, dù công việc ấy chỉ là uống trà, ăn phở, giã giò, giã cốm, thậm chí công việc của tên đao phủ chém đầu người…

Ở đây, ông lái đò cũng được tiếp cận như vậy. Đúng là ông lái đò của Nguyễn Tuân. Lái đò như thế thì không còn là chuyện nghề nghiệp thông thường nữa mà đã sang hẳn phạm trù của nghệ thuật, nghệ sĩ – nói như tác giả – là “tay lái ra hoa”.

Tất cả nghệ thuật của ông lái đò là nắm chắc “quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà”. Làm chủ được quy luật thì có nghĩa là đạt tới tự do và nghệ thuật. Có điều đây là một quy luật hết sức khắc nghiệt. Chỉ một chút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu bình tĩnh, loá mắt lơ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của mình. Để làm nổi bật tài nghệ của ông lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác của ông ta như là một viên tướng ngày xưa tiến vào một trận đồ bát quái được bố trí sẵn với rất nhiều cạm bẫy giăng ra hết vòng này đến vòng khác, mỗi vòng đều có những “viên tướng đá” nham hiểm, quái ác chờ sẵn và quyết tiêu diệt bằng được đối phương của mình.

Ở đây Nguyễn Tuân lại phải vận dụng đến những hiểu biết về khoa học quân sự và về võ thuật để diễn tả: nào là đòn dương, đòn âm, đá trái, thúc gối, phục kích, vu hồi,… Nào là tuyến một, tuyến hai, cửa sinh, cửa tử,… Chỉ là chuyện một ông lái đò và một cái thác nước mà Nguyễn Tuân đã viết được những trang thật hấp dẫn mà người đọc cứ như được nhìn thẳng vào những thước phim quay cận cảnh, đặc tả với bao tình huống hồi hộp,…

Viết được những trang như thế, phải có một trí tưởng tượng phong phú lắm, phải có một kho chữ nghĩa giàu có lắm và phải có một vốn tri thức thuộc nhiều lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật khác nhau. Nguyễn Tuân thường đã say một cái gì thì muốn quan sát, mô tả nó từ mọi mặt, mọi phía, nói cho đến sơn cùng thuỷ tận, dường như không muốn cho ai nói thêm được gì nữa. Con người này chủ trương uống rượu phải uống cả cấn (dĩ tận vi độ), văn của ông cũng muốn như thế.

Và ông lái đò đã hiện lên như Nguyễn Tuân mong muốn: một con người tài hoa trí dũng tuyệt vời đã đánh bại được cái thác nước hung dữ nham hiểm, phá hết vòng vây này đến vòng vây khác “cưỡi lên con thác”, “nắm chặt lấy bờm sóng”, “phóng nhanh”, “lái xiết”, “đè sấn lên” luồng sóng này, “chặt đôi” luồng sóng khác, tránh cửa tử, lao thẳng vào cửa sinh, vượt qua trùng trùng ải đá “Vút vút cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước” để cuối cùng thoát hẳn ra ngoài con thác dữ.

Qua bài tuỳ bút, đặc biệt là qua đoạn tả cuộc vượt thác của ông lái đò, Nguyễn Tuân muốn nói với người đọc rằng: chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường. Nó ở ngay trong cuộc sống của nhân dân ta hằng ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Và trí dũng tài ba không phải tìm ở đâu đâu, mà ở ngay những người dân lao động bình thường kia. Cuộc đời của ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời.

4. Văn mẫu phân tích Người lái đò sông Đà bài số 4

“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của người nghệ sỹ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà điển hình, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đó vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sỹ tài ba trong nghề của mình.

Trong các tác phẩm của mình dù viết trước hay sau cách mạng tháng Tám thì các nhân vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt, tài hoa nghệ sỹ. Hình ảnh ông lái đò cũng không phải là một ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm, ta sẽ ấn tượng ngay đầu tiên với ngoại hình của ông: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù…”.

Đọc thêm:  Nghị luận giải thích câu nói: “Rừng vàng biển bạc”

Sức vóc ông khỏe mạnh chẳng khác gì thanh niên trai tráng mười tám đôi mươi: “Gần bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun… ông giơ tay lên, đôi cánh tay trẻ tráng quá bịt cái đầu bạc hói đi. Không ai không lầm tưởng mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”.

Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó. Chỉ có yêu quý nghề, gắn bó sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai sương dong duổi chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang đậm dấu ấn nghề nghiệp như vậy. Đây chính là phong cách viết độc đáo của Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên chú đọc ta mới khám phá ra được nhiều tầng ẩn ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.

Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái đò còn ẩn chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo nghề. Ông là một linh hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện qua trí nhớ siêu phàm của ông. Trí nhớ ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỷ mỉ 73 con thác, như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của con thác hiểm trở.

Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái dấu chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường dường như không hề suy chuyển. Ông vẫn rất tự tin mà rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu rồi nhưng nay cho lên thác xuống ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu có địa giới loang ra bờ sông Đà, cũng còn cái linh lợi để trở mừng một phái đoàn trung ương vừa lên vừa xuống thăm dò khảo sát toàn bộ sông Đà cho đến biên giới Trung Quốc”.

Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa rõ nét nhất qua trận thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc họa trong tương quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng trải thôi thì chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đây chính là dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng ông lái đò, phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường chỉ được bộc lộ rõ nhất khi nhận vật đối mặt với khó khăn, nguy hiểm.

Giả sử đặt ông lái đò trong khung cảnh thi vị, trữ tình của sông Đà thì hình tượng lại phát triển theo một hướng khác, trở thành một nghệ sỹ đa tình lẫn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Còn ở đây, ông lái đò trở thành người anh hùng nghệ sỹ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra ngay diện mạo và tâm địa độc ác của kẻ thù số một, lực lượng đá hậu, đá tương, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm tạo thành một lực lượng hùng hậu, đông đảo, dữ dằn và nham hiểm.

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi. Trùng vi một có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng, mặt nước hò la vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ông lái đò nhưng ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất lên. Vì thế sóng nước lại càng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất nốc ao đối phương, ông lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt móc bệch.

Ông chỉ huy hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn thật nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.

Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định nhử thuyền vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh lái miết một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu luyện.

Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một ông lái đò và sáu tay trèo, tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày dặn kinh nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền trọc thủng cửa giữa. Thuyền vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được. Thế là kết thúc.

Tác giả đã rất dày công khi miêu tả trận thủy chiến với con sông Đà của ông lão lái đò. Một loạt những hành động nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng thẳng, lái miết một đường, chọc thủng, xuyên nhanh,… Kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp lá cà một sống, một chết. Hơn nữa thủ pháp nghệ thuật tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập: một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu. Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.

Với ngòi bút tài hoa và sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể thao, võ thuật, quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình thường thành bản trường ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành một anh hùng, một nghệ sỹ lái đò trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa là dũng sĩ, vừa là nghệ sĩ – tay lái ra hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người lao động trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Không chỉ là cô Đào trong truyện ngắn “Mùa lạc” của Nguyễn Khải, tình nguyện lên Điện Biên xây dựng nông thôn mới, không chỉ là tầng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ Là xa xôi biết mấy cũng lên đường”, mà cùng với họ, ông lái đò sông Đà đã góp phần làm nổi bật, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của người lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 – 60.

Quả thật, vẻ đẹp “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của con người Tây Bắc đã được Nguyễn Tuân dày công khám phá trên dòng Đà giang khuất nẻo. Nếu như sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “Kẻ thù số một của con người”, thì cũng chính thiên nhiên qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người lao động. Quả thật sâu sắc khi nói “Thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Tác phẩm sẽ mãi là bản trường ca hào hùng đi cùng năm tháng.

Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân bài số 5

Nguyễn Tuân được biết đến là một cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm dường như đã khắc họa vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” đã được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), và gồm có 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó chính là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đã đi đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận.

Có thể nói ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

Qua tác phẩm đặc sắc “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với một tấm lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo nhưng có lúc lại hết sức trữ tình. Đồng thời, nhà văn dường như cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới đó chính là chất vàng mười đã qua thử lửa của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó mà nhà văn đã ca ngợi con sông Đà vừa hung dữ nhưng cũng có lúc trữ tình, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử và cũng rất tài hoa.

Người lái đò dường như đã hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang. Hơn nữa lại có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân thật tài tình khi đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ. Và nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Có lẽ nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó còn chính là một cuộc vượt thác đầy nguy hiểm đến tính mạng, diễn ra nhiều hồi, và cũng rất nhiều đợt như một trận đánh mà ở đó dường như đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.

Dường như “Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này” có thể thấy rằng mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là ngay lập tức có một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Có thể nói Nguyễn Tuân như đã dùng rất đắt cho việc sử dụng ngôn ngữ của mình bằng cách tả những hòn đá. Ông tả mặt của hòn đá nào dường như cũng trông ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…”. Con sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Và khi đi tới đây mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Và việc một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh khỏi ra được một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn phía trước.

Dường như trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi con sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất đó chính là dùng nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, mà dường như vẫn giữ được sự bình tĩnh, đầy mưu trí. Lúc này đây người lái đò bỗng như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Và ngay cả khi người lái đò bị thương, thì ông vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, rồi cả đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm nữa. Nhưng khi mà người lái đò “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, không quản mệt nhọc thì ngay lập tức người lái đò đã lại “phá luôn vòng vây thứ hai”.

Ông lão lái đò dường như cũng đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Và cho đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng dường như lúc này người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền đã vun vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút cửa ngoài rồi lại cả cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Và dường như trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên thật hung dữ của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, có thể nói rằng chính những cái kết cục cuối thì với người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.

Người lái đò hiển hiện trong tác phẩm chính là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ và người lái đò trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động chân chính đã chiến thắng thiên nhiên là nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.

Có thể nhận thấy nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Dường như khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ dường như đã đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong Người lái đò sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật được sử dụng đặc sắc ở đây là phải am hiểu và nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Nếu như chỉ cần có một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông Đà không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ ngay. Chung quy lại, thì ở bất cứ nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò dường như vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Có lẽ chính vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Dường như mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác.

Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Và trong đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng như chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi cả.

Như những nghệ sĩ chân chính, thì sau khi đã vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm để đời thì không mấy ai tự tán dương về công sức của mình, và chính nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét rằng “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ”. Chính vì thế mà họ nghĩ thế lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa thì chỉ có Nguyễn Tuân mà thôi.

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” còn chính là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm đặc sắc này không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà dường như còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân đã có thể bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.

Nghe bài phân tích Người lái đò sông Đà hay nhất

Những câu hỏi thường gặp về Người lái đò sông Đà

1. Cảm hứng trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân được khơi gợi từ:

A. Vẻ đẹp của sông Đà và sự tài hoa của người lái đò sông Đà.

B. Cuộc sống mới của người dân Tây Bắc.

C. Lịch sử của con sông Đà

D. Vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc gắn liền với sông Đà.

2. Cảm hứng sáng tạo của tập tùy bút “Sông Đà” được khơi gợi chủ yếu từ hiện thực nào?

A. Hiện thực cuộc kháng chiến hào hùng ở Tây Bắc.

B. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở Tây Bắc.

C. Hình ảnh con Sông Đà.

D. Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc.

3. Biện pháp tu từ nào sau đây được Nguyễn Tuân sử dụng nhiều nhất khi khắc họa hình tượng con sông Đà?

A. Cường điệu.

B. Nhân hóa.

C. Ẩn dụ.

D. So sánh.

4. Thông tin nào về tập “Sông Đà” là chưa chính xác?

A. Tác phẩm được xuất bản vào năm 1960 và là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp và đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.

B. Tác phẩm chủ yếu hướng tới ngợi ca nhân dân Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

C. Tác phẩm vừa mang yếu tố truyện, vừa thoải mái bàn bạc, nghị luận, triết luận.

D. Tác phẩm gồm 15 bài tùy bút và bài thơ ở dạng phác thảo.

5. Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa được một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo? (Câu hỏi 2 trang 192 SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1)

6. Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân. (Câu hỏi bài 5 trang 193 SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1)

7. Dòng nào dưới đây chưa nói đúng đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm Sông Đà?

A. Ngôn ngữ đôi chỗ kiểu cách cầu kì quá mức.

B. Tinh tế, hiện đại, vừa trí tuệ lại vừa giàu cảm xúc thẩm mĩ.

C. Vừa đậm màu sắc cổ điển, vừa rất giàu chất hội họa

D. Vừa đậm chất thơ, vừa giàu chất tạo hình.

Trên đây là những nội dung hướng dẫn, dàn ý và bài văn mẫu phân tích người lái đò sông Đà đặc sắc nhất. Chúc các bạn học tốt và luôn đạt được thành tích cao.

Đánh giá bài viết

Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!

Dustin Đỗ

Tôi là Dustin Đỗ, tốt nghiệp trường ĐH Harvard. Hiện tôi là quản trị viên cho website: www.hql-neu.edu.vn. Hi vọng mọi kiến thức chuyên sâu của tôi có thể giúp các bạn trong quá trình học tập!!!

Related Articles

Back to top button