Phân tích khổ 2, 3 và 4 bài thơ Sóng (7 mẫu) – Văn 12 – Download.vn

Phân tích khổ 2, 3 và 4 bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh tuyển chọn 7 bài văn mẫu hay nhất kèm theo dàn ý tham khảo. Thông qua phân tích khổ 2, 3, 4 bài Sóng các bạn lớp 12 có thêm nhiều gợi ý học tập, trau dồi vốn văn chương của mình, hoàn thiện bài văn khi ôn tập, rèn luyện và làm các bài kiểm tra sắp tới đạt kết quả tốt.

TOP 7 mẫu phân tích khổ 2, 3, 4 bài Sóng dưới đây các em sẽ biết cách làm văn thế nào cho mượt, hay có thể lấy thêm ý văn hay rồi từ đó diễn đạt lại theo lối hành văn của chính mình. Chắc chắn đây sẽ là tài liệu tự đọc, tự học rất bổ ích và thiết thực đối với các em trên con đường phía trước. Ngoài ra các em xem thêm bài văn mẫu phân tích bài thơ Sóng, kết bài Sóng.

Dàn ý phân tích khổ 2, 3 và 4 bài thơ Sóng

Dàn ý chi tiết số 1

I. Mở bài

– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:

  • Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mĩ với hồn thơ rất đỗi trẻ trung, tươi mát, đầy nữ tính.
  • Có thể nói, cùng với “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, bài thơ “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ Xuân Quỳnh.

– Khái quát nội dung khổ 2, 3 và 4: hình tượng sóng đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung.

II. Thân bài

1. Khái quát về hình tượng “sóng”

– Hình tượng trung tâm và nổi trội trong bài thơ là hình tượng “sóng”, bao trùm cả bài thơ là hình tượng sóng.

  • Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ trẻ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả.
  • “Sóng” là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi chiếu, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình.

=> Với hình tượng sóng, có thể nói Xuân Quỳnh đã tìm được một cách thể hiện thật xác đáng tâm trạng của người phụ nữ trong tình yêu.

– Hình tượng sóng đã gợi ra trong cả bài thơ bằng âm điệu: Bài thơ có một âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thì thầm sâu lắng, gợi âm hưởng của những đợt sóng miên man, vô tận. Âm hưởng ấy được tạo dựng nên bởi thể thơ năm chữ, với những câu thơ liền mạch, từng không ngắt nhịp, các khổ thơ được gắn kết với nhau bằng cách nối vần (“Khi nào ta yêu nhau”… “Con sóng dưới lòng sâu”).

=> Nhịp sóng đó cũng chính là nhịp lòng của tác giả, một tâm trạng đang xao động, trào dâng, miên man và chất chứa những khát khao, rạo rực.

2. Phân tích khổ 2, 3 và 4

– Khổ 2: Biển chính là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với những sự bất diệt có thực của biển, Xuân Quỳnh liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng tình yêu. Biển ngàn đời vẫn cồn cào, xáo động, cũng như tình yêu muôn đời vẫn bồi hồi vỗ sóng“ trong ngực trẻ:

“Ôi con sóng… ngực trẻ”

– Khổ 3, 4: Đến khổ ba của bài thơ, sóng lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu. Đứng trước biển, người phụ nữ muốn cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng để tìm lời đáp cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tim mình.

“Sóng bắt đầu… ta yêu nhau”

=> Mọi nỗ lực để cắt nghĩa về tình yêu của Xuân Quỳnh cuối cùng trở nên bất lực. Nhà thơ “thú nhận” thành thực, hồn nhiên mà không kém ý nhị, sâu sắc: “Em cũng không biết nữa/Khi nào ta yêu nhau”.

III. Kết bài

– Khái quát lại nội dung ba khổ thơ.

– Cảm nhận của em: Tình yêu luôn luôn quan trọng với cuộc sống của mỗi con người, mỗi chúng ta ai cũng có quyền yêu và được yêu. Và tình yêu của tuổi trẻ là tình yêu mãnh liệt và cảm xúc trong sáng nhất.

Dàn ý chi tiết số 2

1. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về nhà thơ Xuân Quỳnh, bài thơ Sóng và nội dung nổi bật của 3 khổ thơ

2. Thân bài

a. Khổ thơ thứ 2: Giãi bày nỗi khát vọng tình yêu luôn rạo rực trong trái tim nữ sĩ

  • Sóng vốn là hiện tượng tự nhiên muôn thuở nơi đại dương mênh mông. Nó là biểu tượng cho sức sống vĩnh hằng, kỳ diệu, biểu tượng cho sự trường tồn bất biến với thời gian.
  • Xây dựng hình ảnh “sóng ngày xưa” và “ngày sau” cùng việc sử dụng tính từ cảm thán “ôi”, tình thái từ chỉ trạng thái “vẫn thế”, Xuân Quỳnh đã khéo léo diễn tả khát vọng vô cùng đẹp đẽ.
  • Sóng ở đây là sóng lòng, sóng chính là “em”. Sóng của biển vĩnh hằng cùng tự nhiên cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của đôi lứa, là “khát vọng” muôn thuở của trai gái từ xưa đến nay.
  • Bên cạnh “ngày xưa” – “ngày nay”, Xuân Quỳnh khéo léo đặt vào khổ thơ chữ “trẻ” ở cuối câu thơ, nhấn mạnh sức sống mãnh liệt của tình yêu.

b. Khổ thơ thứ 3: Mong muốn khám phá những bí mật của tình yêu

  • Những trăn trở, nghĩ suy trong tâm trí nữ thi sĩ được gợi ra qua hàng loạt câu thơ bắt đầu với cấu trúc “em nghĩ” đầy suy tư.
  • Đối diện với không gian bao la, vô tận, nhà thơ bỗng nhớ đến cái mênh mang, vô hạn của tình yêu.
  • Tình yêu không chỉ mênh mang, vô tận, trong lòng đại dương mà nó còn chứa đựng bao bão tố, phong ba, bao bí ẩn khiến lòng người trăn trở, băn khoăn, khát khao kiếm tìm đáp án.

c. Khổ thơ thứ 4: Khát khao được khám phá, tìm kiếm cội nguồn của tình yêu

  • Nhà thơ sử dụng một loạt câu hỏi tu từ, dập dờn theo nhịp điệu của sóng
  • Nương theo con sóng đại dương, bà bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu, đồng thời lý giải bản chất của nó.
  • “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau” vừa giống như câu trả lời đầy nũng nịu, lại như lời thú nhận về kết quả khám phá cội nguồn tình yêu.
  • Tình yêu vốn là tình cảm ẩn sâu trong trái tim con người, nó trừu tượng, huyền diệu chỉ có thể cảm nhận chứ không thể giải thích rõ nguồn cội, cũng chẳng thể cắt nghĩa rõ ràng.

d. Đánh giá nghệ thuật

  • Hình ảnh gợi cảm đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc cùng những câu hỏi tu từ dồn dập.
  • Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp phóng túng tạo âm hưởng dào dạt. Nhịp thơ khi nhẹ nhàng, khi da diết.

=> Qua đó, nhà thơ đã thể hiện được những chiêm nghiệm, suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như khát vọng tình yêu thủy chung, tốt đẹp.

3. Kết bài

– Khẳng định lại giá trị 3 khổ thơ và tài năng nữ thi sĩ Xuân Quỳnh

Phân tích khổ 2, 3 và 4 bài thơ Sóng – Mẫu 1

“Sóng” là bài thơ tình tuyệt bút của Xuân Quỳnh (1942 – 1988). Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn thiên trường gồm có ba mươi tám câu thơ. Qua hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung.

Ba khổ thơ dưới đây trích trong phần đầu bài thơ. Hình tượng “sóng” trong sự liên hệ đối sánh với nhân vật trữ tình “em” đã đem đến cho tâm hồn ta bao gợi cảm phong phú bất ngờ:

“Ôi con sóng ngày xưa…Lòng em nhớ đến anhCả trong mơ còn thức”

Sóng là hiện tượng muôn đời của đại dương bao la. Còn vũ trụ, đất trời thì còn có đại dương; và đại dương còn thì có nghĩa là có “muôn trùng sóng bể”. Sóng là sức sống vĩnh hằng, kì diệu của biển, trường tồn trong dòng chảy thời gian: “Ôi con sóng ngày xưa – Và ngày sau vẫn thế”. Từ “ôi” cảm thán cất lên đầy xúc động ngây ngất của một nỗi niềm. Sóng của biển cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của lứa đỏi, là “khát vọng” của trai gái xưa nay. Sóng reo, sóng vỗ trên biển cả mênh mông cũng như “con sóng” tình yêu biến hóa vô cùng, lúc thì “dữ dội và dịu êm”, lúc thì “ồn ào và lặng lẽ” làm cho trái tim tuổi trẻ rung động, xao xuyến, “bồi hồi”:

“Nỗi khát vọng tình yêuBồi hồi trong ngực trẻ”

Hình tượng “sóng” trong những vần thơ ngọt ngào thiết tha đầy gợi cảm mang tính nhân văn. “Trước muôn trùng sóng bể” của đại dương mênh mông, lớp lớp sóng vô tận, người phụ nữ “bồi hồi” nghĩ về quy luật của sự sống, về sự trường tồn của đại dương, về nguyên nhân kì diệu nào mà có “sóng lên”. Rồi bâng khuâng nghĩ về mối nhân duyên của mình, về tình yêu của “em” và “anh”. Điệp ngữ: “Em nghĩ về … Em nghĩ về … kết hợp với câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” đã làm cho giọng thơ nồng nàn, say đắm, cảm xúc bâng khuâng triền miên dào dạt dâng lên. Hình tượng “sóng” và sự liên tưởng phong phú được diễn tả một cách thi vị:

“Trước muôn trùng sóng bểEm nghĩ về anh, emEm nghĩ về biển lớnTừ nơi nào sóng lên”

Hỏi sóng rồi hỏi gió: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Rồi thiếu nữ lại tự hỏi trái tim mình, tự hỏi lòng mình: “Khi nào ta yêu nhau?”. Đó là tâm trạng của “em”, của bất cứ chàng trai cô gái nào trong tình yêu. Tình yêu đã đến với “em” tự bao giờ, nhưng cái khắc khoải “thắm lại” của hai tâm hồn “anh” và “em”, đâu dễ trả lời. Ông chúa thơ tình Xuân Diệu đã viết: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”… Tuy không trả lời được câu hỏi: “Khi nào ta yêu nhau?” nhưng cái khoảnh khắc thần tiên của mối tình đầu mãi mãi được ghi sâu trong lòng người:

Đọc thêm:  Soạn bài tình thái từ ngắn gọn và hay nhất | Soạn văn 8 - Đọc Tài Liệu

“Cái thuở ban đầu đầy lưu luyến ấyNghìn năm chưa dễ đã ai quên?”

(Thế Lữ)

Người thiếu nữ trong bài thơ “Sóng” đã “tự hát” về nỗi khao khát được yêu thương, được sống thủy chung trong tình yêu hạnh phúc. Hình tượng “sóng” gợi lên bao cảm xúc mạnh mẽ, nồng nàn, phong phú và bất ngờ. Sóng thật mãnh liệt. Em thật nồng nàn say mê bởi lẽ với em thì tình yêu là “khát vọng”.

Phân tích khổ 2, 3 và 4 bài thơ Sóng – Mẫu 2

Xuân Quỳnh được mệnh danh là nữ hoàng của thơ tình yêu. Chị viết nhiều về đề tài về cuộc sống đời thường nhưng tình yêu có lẽ là đề tài thành công, gây được tiếng vang lớn nhất trong sự nghiệp văn học của bà. Trong tiếng thơ của Xuân Quỳnh luôn thổn thức nỗi lòng yêu thương chân thành, mãnh liệt nhưng chứa chan âu lo, dự cảm chẳng lành. Đến với “Sóng”, hồn thơ ấy lại được thể hiện đậm nét hơn qua bốn khổ thơ đầu của bài thơ. Ba khổ thơ hai, ba và bốn chứa chan khát vọng tha thiết, nhiệt thành và cả những chông chênh của người phụ nữ trong tình yêu.

Trong bài thơ nổi bật lên là hai hình tượng sóng và em. Song hành với “sóng” là “em”. Em là cái tôi người phụ nữ trong tình yêu. Và để đối chiếu với em, soi chiếu rõ nét cho em, nhà thơ đã mượn hình ảnh của sóng. Dù là em hay là sóng quy tụ lại cũng chính là biểu trưng cho cái tôi của chính tác giả, cho tình yêu nồng nàn, mãnh liệt đắm say của bà.

Nỗi khát vọng tình yêu luôn rạo rực trong trái tim mỗi con người:

“Ôi con sóng ngày xưaVà ngày nay vẫn thếNỗi khát vọng tình yêuBồi hồi trong ngực trẻ”

Con sóng đặt giữa hai trạng từ chỉ thời gian: “ngày xưa – ngày nay” kết hợp với cụm từ “vẫn thế”. Đó như một lời khẳng định dù là hàng triệu năm trước hay hàng ngàn năm sau thì những con sóng vẫn cứ ngày đêm dạt dào trên mặt biển. Sóng là em, soi chiếu cho em, cũng chính vì thế những con sóng tự nhiên hay chính là con sóng lòng. Tình yêu lúc nào cũng dạt dào, cuộn trào trong trái tim nhiệt thành của người phụ nữ. Ngày xưa thế và ngày sau vẫn thế. Tình yêu là vĩnh hằng và vô tận.

Ý niệm vĩnh hằng không chỉ hiện qua thời gian mà còn hiện qua không gian. Biển tựa như lồng ngực lớn lao đất trời. Nhịp đập của sóng giống như hơi thở cồn cào của biển. Còn biển, còn sóng và còn con người thì sẽ mãi còn yêu thương bất diệt. Chữ “trẻ” được khéo léo đặt cuối dòng thơ như muốn nhấn mạnh tình yêu là sức sống, là nhịp đập của tuổi trẻ, tình yêu mang đến sự tươi tắn, viết lên thanh xuân có ý nghĩa cho cuộc đời mỗi người phụ nữ. Xét đi xét lại thì xét cho cùng không chỉ riêng nhà thơ mà bất cứ ai cũng đều khát khao cháy bỏng một tình yêu vĩnh hằng, trường tồn với không gian, thời gian.

Cái đam mê khao khát trong tình yêu đã được thể hiện một cách thật đẹp, thật tài tình và chân thành. Người phụ nữ trân trọng tình yêu và vì thế họ luôn muốn được tìm tòi những bí mật trong tình yêu:

“Trước muôn trùng sóng bểEm nghĩ về anh emEm nghĩ về biển lớnTừ khi nào sóng lên?”

Hàng loạt các câu thơ được bắt đầu bằng cấu trúc: “Em nghĩ” gợi đến biết bao những trăn trở, nghĩ suy trong trái tim người phụ nữ. Trăn trở được kiếm tìm, được giải đáp bao âu lo suy tư trắc trở. Không còn ẩn mình trong hình tượng sóng nữa, hình ảnh em ở đây đã được nổi lên, đặt trước cái mênh mông đất trời. Đối diện với không gian rộng lớn, bao la, nhà thơ bất giác đối sánh chiếu với cái mênh mông, vô hạn của tình yêu. Nhưng đâu chỉ mênh mông đâu chỉ vô tận, đại dương đầy bão tố kia chứa đựng biết bao bí ẩn, khiến cho trong lòng người phụ nữ lúc này dâng lên bao trăn trở, băn khoăn, mong muốn kiếm tìm lời giải đáp. Có lẽ rằng chỉ khi yêu con người ta mới khao khát đến thế, khao khát được khám phá, được giải đáp và được thấu hiểu đến tận cùng cội nguồn của nó. Hình ảnh người phụ nữ ở đây hiện lên thật đẹp, nét đẹp đặc biệt, thật thân thiện và đáng trân trọng.

Nối tiếp những suy nghĩ đó là câu đáp:

“Sóng bắt đầu từ gió”

Câu trả lời chóng vánh nhưng những trăn trở nào đâu có dừng lại ở đó. Cũng giống như những cơn sóng miên man, dập dìu nỗi băn khoăn của người phụ nữ cũng vì thế mà nối tiếp đến vô tận:

“Gió bắt đầu từ đâu?”

Sóng từ gió còn gió lại từ đâu? Câu hỏi nối tiếp, dồn dập để rồi đáp lại bằng sự bối rối nghẹn ngào:

“Em cũng không biết nữa”

Hình ảnh em lại xuất hiện thế nhưng xuất hiện với cái lắc đầu ngượng ngùng bất lực, cái lắc đầu nũng nịu nhưng đầy bối rối và hạnh phúc. Tuy thế lại vô cùng đặc biệt bởi cái lắc đầu được đặt chơi vơi giữa hai câu hỏi:

“Khi nào ta yêu nhau”

Không biết chơi vơi giữa gió và tình yêu. Không biết gió có từ đâu và càng không thể cắt nghĩa được hạnh phúc, không biết được khi nào ta yêu nhau? Vì sao ta yêu nhau? Đó cũng chính là những bí ẩn ngàn đời của tình yêu và chính những bí ẩn này đã làm nên những quyến rũ rất riêng của tình yêu. Cũng giống như ông hoàng Xuân Diệu từng nói: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”. Tình yêu là thế, dù rằng có không thể hiểu nhưng vẫn bất chấp thả mình, đắm say trong nó. Tình yêu khiến cho trực cảm luôn đi trước lý trí. Đây cũng chính là lúc con người sống thật nhất với cảm xúc của mình. Tình yêu vượt qua mọi lý trí, mọi logic mọi quy luật trần thế.

Trôi chảy theo mạch xúc cảm, bốn khổ thơ đầu đã vẽ nên nét đẹp rất Á Đông của người phụ nữ trong tình yêu. Đó là khát khao được dâng hiến, đắm chìm trong tình yêu dạt dào, nồng nàn và vĩnh cửu. Bài thơ còn toát lên nét đẹp hiện đại, rất riêng tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh thời kỳ đầu. Sau này dù cho nhiều đắng cay nhưng khát khao đó vẫn cháy bỏng trong trái tim nhiệt thành của nhà thơ.

Phân tích khổ 2, 3 và 4 bài thơ Sóng – Mẫu 3

“Sóng” là một trong những bài thơ tình nổi tiếng của nhà thơ Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng được nhà thơ khắc họa nhằm thể hiện niềm khao khát của người con gái trong tình yêu. Điều này được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ hai, ba và bốn:

Ở khổ thơ thứ hai, Xuân Quỳnh đã khẳng định một chân lý, nếu sóng tồn tại bất diệt với đại dương thì tình yêu tồn tại bất diệt với con người:

“Ôi con sóng ngày xưaVà ngày sau vẫn thếNỗi khát vọng tình yêuBồi hồi trong ngực trẻ”

Sóng vốn là hình ảnh thiên nhiên, và khi nào vũ trụ này vẫn còn tồn tại có nghĩa là sóng vẫn sẽ tồn tại. Nếu con sóng tồn tại bất diệt với thời gian dù là “ngày xưa” hay “ngày sau” thì “vẫn thế” – không thay đổi. Thì tình yêu cũng vậy, nó luôn tồn tại vĩnh cửu vượt qua mọi thời gian, không gian. Nhưng đặc biệt nhất là ở “ngực trẻ”. Bởi có lứa tuổi nào mà tràn đầy rạo rực yêu đương như ở tuổi trẻ? Chính tình yêu mang đến cho tuổi trẻ những nhịp đập rung động khác thường, sự tươi sáng vui tươi, lặng lẽ viết lên những trang nhật ký thanh xuân đầy đẹp đẽ.

Để rồi Xuân Quỳnh tiếp tục lí giải về nguồn gốc của tình yêu:

“Trước muôn trùng sóng bểEm nghĩ về anh, emEm nghĩ về biển lớnTừ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gióGió bắt đầu từ đâu?Em cũng không biết nữaKhi nào ta yêu nhau”

Người phụ nữ trong tình yêu luôn trăn trở, suy nghĩ. Điệp từ “em nghĩ” đã cho thấy điều đó. “Em” khi đứng trước đại dương mênh mông, em nghĩ đến anh đầu tiên rồi mới nghĩ về biển lớn. Và em cũng tự hỏi lòng mình rằng sóng bắt nguồn từ nơi nào. Câu hỏi được đặt ra đã tự có được câu trả lời cho riêng mình: sóng bắt đầu từ những cơn gió – một cách lý giải rất thực tế. Nhưng nỗi băn khoăn vẫn không dừng lại: “Gió bắt đầu từ đâu?” thì lại không có câu trả lời. Cũng giống giống như thật khó để biết được từ khi nào tình yêu bắt đầu. Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu đã từng bộc lộ:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêuCó khó gì đâu một buổi chiềuNó chiếm hồn ta bằng nắng nhạtBằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”

(Vì sao?)

Dường như khi đọc đến đây, ta có thể hình dung được cái lắc đầu đầy nũng nịu của em khi trả lời câu hỏi về nguồn gốc của tình yêu. Thế mới thấy trong tình yêu, người con gái trở nên dịu dàng và đáng yêu biết chừng nào.

Ba khổ thơ trên đã góp phần không nhỏ làm nên thành công của bài thơ “Sóng”. Khi đọc tác phẩm này, người đọc đã cảm nhận được những rung động tinh tế của tình yêu.

Phân tích khổ 2, 3 và 4 bài thơ Sóng – Mẫu 4

Xuân Quỳnh được biết đến với những bài thơ tình nổi tiếng như: Thuyền và biển, Tự hát, Sóng… Trong đó, “Sóng” là một tác phẩm nổi bật, đã bộc lộ được những khát khao của người con gái trong tình yêu. Điều đó được thể hiện qua khổ thơ thứ hai, ba và bốn của bài thơ.

Hình tượng “sóng” đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi và thông qua đó, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái khi đang yêu hay đang mong chờ tình yêu. Trạng thái của con sóng cũng là tâm trạng khi yêu, là khát vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra đại dương, nó cũng dâng trào và cuồn cuộn như chính tình cảm của những cô gái đang yêu cũng nồng nàn với những nỗi nhớ, nhưng cũng có lúc nỗi nhớ nỗi khát khao ấy lại biến thành một con sóng tình, cuộn xô trong lòng họ.

Đọc thêm:  Soạn bài lớp 7: Rút gọn câu - VnDoc.com

Sóng thật mạnh mẽ, chủ động. Sóng muốn tìm tới một nơi mênh mông dạt dào, có đến nơi biển rộng trời cao sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với những khát khao to lớn. Nó sẵn sàng bỏ đi những thứ không thuộc về nó để đến với những nơi mà tiếng gọi của tình yêu ập tới. Sóng – biểu tượng của tình yêu, chính vì vậy miêu tả sóng biến hoá là cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó hiểu của tình yêu. Cũng giống như sóng biển, tình yêu là một hiện tượng kỳ diệu của con người. Để tìm đến với tình yêu đích thực, sóng tìm đến với biển lớn, sóng tìm đến với những nơi thuộc về nó. Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Em “khát khao” được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em:

“Ôi con sóng ngày xưaVà ngày sau vẫn thếNỗi khát vọng tình yêuBồi hồi trong ngực trẻ”

Quy luật muôn đời của tự nhiên là sóng “ngày xưa” hay “ngày sau” thì “vẫn thế”. Sóng là một hiện tượng tự nhiên bất biến với thời gian. Và từ quy luật muôn đời ấy của tự nhiên, Xuân Quỳnh cũng rất tự nhiên khi chạm vào lòng ta quy luật của tình yêu muôn đời. Nối khao khát tình yêu luôn tha thiết trong mỗi con người. Cũng như Xuân Diệu đã từng bộc lộ:

“Làm sao sống được mà không yêu,Không nhớ, không thương một kẻ nào?Hãy đốt đời ta muôn thứ lửa!Cho bừng tia mắt đọ tia sao!”

(Bài thơ Tuổi nhỏ)

Nhưng có lẽ tình yêu ấy mãnh liệt nhất là ở trong “ngực trẻ”. Tình yêu rực rỡ nhất, nồng nàn nhất, đẹp đẽ phải là ở tuổi thanh xuân. Khi ấy, còn người có đủ thời gian, đủ dũng khí, đủ sức mạnh để tận hưởng tình yêu. Chẳng bởi thế mà Xuân Diệu đã từng gấp gáp:

“Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…”

(Giục giã)

Kế tiếp là những câu hỏi của “em” về nguồn gốc của sóng hay cũng là về nguồn gốc của tình yêu:

“Sóng bắt đầu từ gióGió bắt đầu từ đâu?Em cũng không biết nữaKhi nào ta yêu nhau”

Đặc biệt, câu thơ “Khi nào ta yêu nhau” đã diễn tả đúng nỗi niềm của những con người đang sống trong một tình yêu đẹp. Làm sao có thể biết được tình yêu bắt đầu từ khi nào. Chỉ biết rằng tình yêu của “anh” và “em” thật chân thành tha thiết, nhớ bồi hồi triền miên và nó không bao giờ mất đi trong những con tim đang thổn thức.

Xuân Quỳnh chính là nhà thơ của tình yêu. Hồn thơ của chị đã bộc lộ những khát vọng say đắm rạo rực, cũng như những suy tư day dứt, trăn trở của lòng mình trong tình yêu. Bạn đọc yêu thơ Xuân Quỳnh, chắc chắn sẽ không thể không thuộc một vài câu thơ trong bài “Sóng”.

Phân tích khổ 2, 3 và 4 bài thơ Sóng – Mẫu 5

Nếu như Xuân Diệu được mệnh danh là “Ông hoàng thơ tình” thì Xuân Quỳnh lại được biết đến là nữ hoàng của tình yêu. Viết về đề tài tình yêu, Xuân Quỳnh đã để lại cho văn học Việt Nam nhiều thi phẩm xuất sắc. Nổi bật trong số đó không thể không nhắc tới bài thơ “Sóng”. Trong tác phẩm, Xuân Quỳnh đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu được yêu thương, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung. Vẻ đẹp này thể hiện đặc biệt rõ nét qua các khổ thơ số 2, 3 và 4:

“Ôi con sóng ngày xưa…Khi nào ta yêu nhau?”

Đoạn thơ mở đầu bài thơ, nữ thi sĩ tái hiện hình ảnh sóng với những ý nghĩa lãng mạn, với vẻ đẹp trữ tình say đắm lòng người đồng thời miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ trong tình yêu với tâm hồn mong manh và khát khao mãnh liệt, tự do phóng khoáng trong tình yêu sẻ chia thực sự. Đến đây, bà tiếp tục giãi bày nỗi khát vọng tình yêu luôn rạo rực trong trái tim con người:

“Ôi con sóng ngày xưaVà ngày nay vẫn thếNỗi khát vọng tình yêuBồi hồi trong ngực trẻ”

Sóng vốn là hiện tượng tự nhiên muôn thuở nơi đại dương mênh mông. Khi nào vũ trụ còn tồn tại thì khi ấy đại dương còn thì còn “muôn trùng sóng bể”, sóng vẫn sẽ còn vỗ. Bởi thế, nó là biểu tượng cho sức sống vĩnh hằng, kỳ diệu, biểu tượng cho sự trường tồn bất biến với thời gian. Xây dựng hình ảnh “sóng ngày xưa” và “ngày sau” cùng việc sử dụng tính từ cảm thán “ôi”, tình thái từ chỉ trạng thái “vẫn thế”, Xuân Quỳnh đã khéo léo diễn tả khát vọng vô cùng đẹp đẽ.

Sóng ở đây chính là sóng lòng, luôn dạt dào, cuộn trào trong trái tim nhiệt thành yêu thương. Sóng chính là “em”. Biển lại giống như lồng ngực bao la của trời đất. Sóng của biển vĩnh hằng cùng tự nhiên cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của đôi lứa, là “khát vọng” muôn thuở của trai gái từ xưa đến nay. Sự vĩnh hằng đó được thể hiện qua cả không gian lẫn thời gian. Bên cạnh “ngày xưa” – “ngày nay”, Xuân Quỳnh khéo léo đặt vào khổ thơ chữ “trẻ” ở cuối câu thơ, nhấn mạnh sức sống mãnh liệt của tình yêu. Nó mang đến cho tuổi trẻ những nhịp đập rung động khác thường, sự tươi sáng vui tươi, lặng lẽ viết lên những trang nhật ký thanh xuân đẹp đẽ, xúc động. Không chỉ riêng thi sĩ mà tất cả mọi người đều khát khao có một tình yêu vĩnh cửu.

Người phụ nữ khát khao yêu thương và trân trọng tình yêu nên luôn muốn khám phá những bí mật của tình yêu:

“Trước muôn trùng sóng biểnEm nghĩ về anh emEm nghĩ về biển lớnTừ khi nào sóng lên?”

Những trăn trở, nghĩ suy trong tâm trí nữ thi sĩ được gợi ra qua hàng loạt câu thơ bắt đầu với cấu trúc “em nghĩ” đầy suy tư. Bà trăn trở được giải đáp những âu lo về tình yêu. “Em” đến đây đã không còn ẩn mình trong sóng nữa mà hiện lên giữa mênh mông đất trời. Đối diện với không gian bao la, vô tận, nhà thơ bỗng nhớ đến cái mênh mang, vô hạn của tình yêu. Nhưng tình yêu đâu chỉ mênh mang, vô tận, trong lòng đại dương của nó còn chứa đựng bao bão tố, phong ba, bao bí ẩn khiến lòng người trăn trở, băn khoăn, khát khao kiếm tìm đáp án. Có lẽ chỉ khi yêu con người ta mới khát khao được khám phá, được thấu hiểu tận cùng cội nguồn của tình yêu:

“Sóng bắt đầu từ gióGió bắt đầu từ đâu?Em cũng không biết nữaKhi nào ta yêu nhau?”

Đáp án của câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên?” thật đơn giản, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Nhưng đáp án của câu hỏi “Gió bắt đầu từ đâu?” lại khiến người ta ngập ngừng, không chắc chắn “không biết nữa”. Những câu hỏi tu từ khi ẩn dưới chân sóng, khi lại trào dâng lên đầu ngọn sóng diễn tả tâm trạng nhà thơ. Nương theo con sóng đại dương, bà bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu, đồng thời lý giải bản chất của nó.

Cuối cùng đáp án nhận được là: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Nó vừa giống như câu trả lời đầy nũng nịu, lại như lời thú nhận về kết quả khám phá cội nguồn tình yêu. Tình yêu vốn là tình cảm ẩn sâu trong trái tim con người, nó trừu tượng, huyền diệu chỉ có thể cảm nhận chứ không thể giải thích rõ nguồn cội, cũng chẳng thể cắt nghĩa rõ ràng. Giống như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng nói:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêuCó khó gì đâu một buổi chiềuNó chiếm hồn ta bằng nắng nhạtBằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”

Có thể nói, chỉ 3 khổ thơ ngắn gọn nhưng Xuân Quỳnh đã khéo léo sử dụng những biện pháp nghệ thuật cùng hình ảnh gợi cảm đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc cùng những câu hỏi tu từ dồn dập. Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp phóng túng tạo âm hưởng dào dạt. Nhịp thơ khi nhẹ nhàng, khi da diết. Để rồi qua việc tạo dựng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã thể hiện được những chiêm nghiệm, suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như khát vọng tình yêu thủy chung, tốt đẹp. Đồng thời khắc họa vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, nét truyền thống pha lẫn vẻ hiện đại của trái tim người phụ nữ với tình yêu chân thành, tha thiết.

Với những giá trị đó, 3 khổ thơ đã góp phần không nhỏ làm nên thành công của “Sóng” và khẳng định hồn thơ Xuân Quỳnh. Đọc thơ bà, chúng ta dường như cũng cảm nhận được rung động tình yêu và lắng nghe được tiếng lòng mình. Vì vậy, vượt qua sự bào mòn của thời gian, thơ Xuân Quỳnh vẫn có một sức sống mãnh liệt trong lòng độc giả.

Phân tích khổ 2, 3 và 4 bài thơ Sóng – Mẫu 6

“Sóng” là bài thơ tình tuyệt bút của Xuân Quỳnh (1942-1988). Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn thiên trường gồm có 38 câu thơ. Qua hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung.

Ba khổ thơ dưới đây trích trong phần đầu bài thơ. Hình tượng “sóng” trong sự liên hệ đối sánh với nhân vật trữ tình “em” đã đem đến cho tâm hồn ta bao gợi cảm phong phú bất ngờ:

“Ôi con sóng ngày xưa…Lòng em nhớ đến anhCả trong mơ còn thức”.

Sóng là hiện tượng muôn đời của đại dương bao la. Còn vũ trụ, đất trời thì còn có đại dương; đại dương còn thì còn “muôn trùng sóng bể”. Sóng là sức sống vĩnh hằng, kì diệu của biển, trường tồn trong dòng chảy thời gian: “Ôi con sóng ngày xưa – Và ngày sau vẫn thế Từ “ôi” cảm thán cất lên đầy xúc động ngây ngất của một nỗi niềm. Sóng của biển cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của lứa đỏi, là “khát vọng” của trai gái xưa nay. Sóng reo, sóng vỗ trên biển cả mênh mông cũng như “con sóng” tình yêu biến hóa vô cùng, lúc thì “dữ dội và dịu êm”, lúc thì “ồn ào và lặng lẽ” làm cho trái tim tuổi trẻ rung động, xao xuyến, “bồi hồi”:

Đọc thêm:  Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ngắn gọn hay nhất

“Nỗi khát vọng tình yêuBồi hồi trong ngực trẻ”.

Hình tượng “sóng” trong những vần thơ ngọt ngào thiết tha đầy gợi cảm mang tính nhân văn. “Trước muôn trùng sóng bể” của đại dương mênh mông, lớp lớp sóng Hên hồi, vô tận, thiếu nữ “bồi hồi” nghĩ về quy luật của sự sống, về sự trường tồn của đại dương, về nguyên nhân kì diệu nào mà có “sóng lên”. Rồi thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối nhân duyên của mình, về tình yêu của “em” và “anh”. Điệp ngữ: “Em nghĩ về … Em nghĩ về … kết hợp với câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” đã làm cho giọng thơ nồng nàn, say đắm,cảm xúc bâng khuâng triền miên dào dạt dâng lên. Hình tượng “sóng” và sự liên tưởng phong phú được diễn tả một cách thi vị:

“Trước muôn trùng sóng bểEm nghĩ về anh, emEm nghĩ về biển lớnTừ nơi nào sóng lên”.

Hỏi sóng rồi hỏi gió: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Rồi thiếu nữ lại tự hỏi trái tim mình, tự hỏi lòng mình: “Khi nào ta yêu nhau”. Đó là tâm trạng của “em”, của bất cứ chàng trai cô gái nào trong tình yêu. Và phải là mối tình mới có câu hỏi ấy. Tinh yêu đã đến với “em” tự bao giờ, nhưng cái khắc khoải “thắm lại” của hai tâm hồn “anh” và “em”, đâu dễ trả lời. Ông chúa thơ tình Xuân Diệu đã viết: ” Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”… Tuy không trả lời được câu hỏi: “Khi nào ta yêu nhau?” nhưng cái khoảnh khắc thần tiên của mối tình đầu mãi mãi được ghi sâu trong lòng người:

“Cái thuở ban đầu đầy lưu luyến ấyNghìn năm chưa dễ đã ai quên?”

(Thế Lữ)

Sức gợi cảm của hình tượng “sóng” thật phong phú và bất ngờ. Sóng tồn tại trong trạng thái “động”, trong mọi không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” tầng tầng lớp lớp “muôn trùng sóng bể”. Có sóng ngầm và nhấp nhô sóng biếc. Sóng được nhân hóa, sóng thao thức suốt đêm ngày trong mọi thời gian: “Sóng nhớ bờ”, trong mọi trạng thái: “Sóng không ngủ được”. Sóng được cảm nhận bằng thính giác, bằng thị giác, bằng tri giác và cả bằng tâm hồn. Hình tượng “sóng” càng trở nên thơ mộng gợi cảm:

“Con sóng dưới lòng sâuCon sóng trên mặtÔi con sóng nhớ bờNgày đêm không ngủ được”.

Cấu trúc song hành, đối xứng: “dưới lòng sâu // trên mặt nước”, “ngày // đêm”, “nhớ bờ // không ngủ được” và điệp ngữ “con sóng” đã làm cho ngôn ngữ thơ cân xứng hài hòa, âm điệu, nhạc điệu thơ nhịp nhàng, uyển chuyển, say đắm và ngọt ngào. Nhạc của thơ, vị ngọt tình yêu như được hòa quyện trong không gian, trong thời gian, và cả trong lòng người.

Xuân Quỳnh có lúc mượn “thuyền” và “biển” làm ẩn dụ để nói lên nỗi nhớ thương của lứa đôi:

“Những ngày không gặp nhauBiển bạc đầu thương nhớNhững ngày không gặp nhauLòng thuyền đau rạn vỡ…”.

(Thuyền và biển)

Từ hiện tượng “sóng nhớ bờ”, nữ sĩ liên tưởng đến nỗi nhớ “em nhớ đến anh”, một nỗi nhớ da diết, triền miên, bồi hồi khôn xiết kể, cả trong cõi thực và cả trong cơn mơ, trong ý thức và cả trong tiềm thức:

“Lòng em nhớ đến anhCả trong mơ còn thức”.

Sóng là quy luật vận động của vũ trụ, của đại dương. Tưởng tượng “sóng nhớ bờ” rồi liên hệ, đối sánh với “em”, với nỗi niềm “lòng em nhớ đến anh…” thật bất ngờ, thú vị. Ca dao nói nhiều về nỗi nhớ của trai gái làng quê. Có nỗi nhớ day dứt khôn nguôi: “Nhớ ai nhớ mãi thế này?- Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”. Có nỗi nhớ bồn chồn, ngẩn ngơ: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ- Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”. Có nỗi nhớ bồi hồi: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa, như ngồi đống than. Qua đó, ta mới cảm thấy nỗi nhớ của “em”, nhân vật trữ tình trong bài thơ “Sóng”: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức” là sâu sắc, bất ngờ, mới mẻ.

Năm 1962, thi sĩ Xuân Diệu viết bài thơ tình “Biển” trong đó hình tượng “sóng” là ẩn dụ về chàng trai đa tình, yêu say đắm, nồng nhiệt:

“Anh xin làm sóng biếcHôn mãi cát vàng emHôn thật khẽ thật êmHôn êm đềm mãi mãi”…

Bài thơ “Biển” là một thử thách lớn đối với Xuân Quỳnh. Năm năm sau, bài ra đời, ẩn dụ “sóng” nói về thiếu nữ trong mối tình đầu với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là sáng tạo, có thể nói là “bất ngờ”.

Người thiếu nữ trong bài thơ “Sóng” đã “tự hát” về nỗi khao khát được yêu thương, được sống thủy chung trong tình yêu hạnh phúc. Hình tượng “sóng” gợi lên bao cảm xúc mạnh mẽ, nồng nàn, phong phú và bất ngờ. Sóng thật mãnh liệt. Em thật nồng nàn say mê bởi lẽ với em thì tình yêu là “khát vọng”.

Phân tích khổ 2, 3, 4 bài Sóng – Mẫu 7

Trong dàn đồng ca các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ đầy trẻ trung, tươi mát và nữ tính. Tình yêu trải qua ngòi bút của bà luôn in đậm dấu ấn cái tôi phụ nữ nồng nàn, táo bạo mà vô cùng tha thiết, chân thành. Tất cả điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, hồn nhiên như bản năng – “Sóng”, đặc biệt là khổ thơ hai, ba và bốn.

Bài thơ là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967, được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). Con người Việt Nam thời kì kháng chiến lại viết về tình yêu, tình cảm riêng tư và vĩnh hằng nhất của nhân loại. Vì thế, bài thơ được coi là “bông hoa lạ” nở “dọc chiến hào” những năm kháng chiến chống Mỹ. Sau hai khổ thơ đầu về những quy luật của tình yêu, “em” vẫn chưa thỏa mình mà muốn truy tìm căn nguyên, nguồn gốc của tình yêu.

Khổ 2 bài thơ Sóng thể hiện nỗi khát vọng của người con gái:

“Ôi con sóng ngày xưaVà ngày sau vẫn thếNỗi khát vọng tình yêuBồi hồi trong ngực trẻ”

Con sóng từ ngàn năm vẫn thế, vẫn tính chất, đặc điểm ấy không bao giờ thay đổi. Và người con gái cũng vậy khát vọng tình yêu luôn thường trực, rạo rực trong trái tim, bao nhiêu năm vẫn hướng về tình yêu, về người yêu.

Trước không gian mênh mông biển lớn, người già hay nghĩ về sự hư vô, nhỏ bé của kiếp người; kẻ tráng trí hùng tâm lại một lòng: “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/ Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” (Phan Bội Châu); kẻ đa cảm lại thấy: “Vắng cánh buồm một chút cũng cô đơn” (Hữu Thỉnh). Còn Xuân Quỳnh, đứng trước biển lại là những suy nghĩ, cảm nhận chân thực và cụ thể nhất:

“Trước muôn trùng sóng bểEm nghĩ về anh, emEm nghĩ về biển lớnTừ nơi nào sóng lên?”

Trước sự mãnh liệt và kì diệu của tình yêu, con người luôn có nhu cầu khám phá những bí ẩn vốn luôn tồn tại trong nó, luôn muốn cắt nghĩa được cội nguồn của tình yêu. Song đó lại là một trạng thái tâm lí dễ giả thích bằng những lí lẽ thông thường, khó ai có thể trả lời một cách chính xác về nguyên nhân, khởi nguồn của tình yêu, cũng như khi Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”. Câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên” nhẹ lơi như hơi thở, tưởng bâng quơ mà hóa ra bận bịu lòng người. Vẫn là ước muốn truy tìm đến tận cùng bản thể: “Con người từ đâu đến? Nó sẽ đi về đâu? Tinh yêu từ nơi nào mà lớn lên vậy?”

Khổ thơ tiếp theo lại là câu hỏi dồn dập như những con sóng nối tiếp đến vô cùng, miên man không dứt, đưa con người tới những suy ngẫm vô tận:

“Sóng bắt đầu từ gióGió bắt đầu từ đâu?Em cũng không biết nữaKhi nào ta yêu nhau”

Trả lời cho câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên?”, lời đáp thật dễ dàng, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Câu hỏi thứ hai ráo riết hơn, lí trí muốn đẩy những băn khoăn đến tột cùng: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Những câu hỏi tu từ lúc ẩn duối chân sóng, lúc lại trào lên đầu ngọn sóng như những trăn trở. Nhân vật trữ tình không cảm nhận về sóng mà nghĩ về sóng. Nương theo những con sóng, nhà thơ bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn tình yêu và phân tích, lí giải bản chất của tình yêu. Đó cũng là mong muốn muôn đời của biết bao đôi lứa. Câu trả lời vừa là sự thú nhận, vừa là sự thức nhận: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Thú nhận về sự bất lực trên hành trình tìm kiếm nguồn cội tình yêu nhưng lại là sự thức nhận sâu sắc: tình yêu là điều huyền diệu, con người chỉ có thể cảm nhận chứ không thể truy tìm cội nguồn, cũng không thể cắt nghĩa rõ ràng, tách bạch. Chẳng phải thể mà Xuân Diệu cũng chia sẻ:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêuCó khó gì đâu một buổi chiềuNó chiếm hồn ta bằng nắng nhạtBằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”

Xuân Diệu hỏi để lí giải còn Xuân Quỳnh nghiêng về tiếng nói tình cảm. Hỏi chỉ để cảm nhận được sự hiện của tình yêu.

Như vậy, qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã thể hiện được những chiêm nghiệm, suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như cung bậc của người phụ nữ đang yêu. Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế, vừa chủ động mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành, tha thiết. Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp phóng túng đã thể hiện xuất sắc âm hưởng dào dạt của sóng biển, sóng lòng. Câu hỏi tu từ, hình ảnh thơ vừa tự nhiên, trong sáng lại có sức gợi mở và suy tưởng đến không ngờ.

Một nhà phê bình Pháp từng khẳng định: “Thơ, tự truyện của khát vọng” có lẽ là dành cho Xuân Quỳnh. Thơ ca, với bà, là sự sống, là tình yêu, làm thơ là được sống với chính mình, sống đầy đủ và trọn vẹn mình. Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta cũng cảm nhận được tình yêu và nghe được khát vọng trong mình. Đó là lí do, vượt qua sự băng hoại thời gian, thơ ca đã, vẫn và sẽ sống cùng ta đến ngày tận thế.

Đánh giá bài viết

Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!

Dustin Đỗ

Tôi là Dustin Đỗ, tốt nghiệp trường ĐH Harvard. Hiện tôi là quản trị viên cho website: www.hql-neu.edu.vn. Hi vọng mọi kiến thức chuyên sâu của tôi có thể giúp các bạn trong quá trình học tập!!!

Related Articles

Back to top button