Hướng dẫn phân tích tác phẩm Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài

Hướng dẫn phân tích bài Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài. Xin mời các em cùng tham khảo, đây là bài hướng dẫn do GV THPT Năng Khiếu đang liên kết làm việc tại Gia sư Thành Tài thực hiện.

VỢ CHỒNG A PHỦ

(TÔ HOÀI)

Phần I. Hướng dẫn phân tích mở bài tác phẩm Vợ Chồng A Phủ

A. HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH BÀI VỢ CHỒNG A PHỦ

I. TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả Tô Hoài

– Tô Hoài là một nhà văn xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam.

– Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn… nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký”. Ông từng tham gia Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như “Truyện Tây Bắc”.

– Sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng.

– Tô Hoài có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình, lay động lòng người.

*Nhận xét về nhà văn Tô Hoài:

– Nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam nói: “Có những nhà văn, nhà thơ làm vinh dự cho chữ Hán, làm vinh dự cho chữ Nôm. Anh Tô Hoài, cùng với Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… làm vinh dự cho chữ quốc ngữ. Tôi được gần các thế hệ đi trước, càng hiểu giá trị của những giây phút sống bên cạnh họ, kể cả khi các anh im lặng”.

– Nhà thơ Trần Đăng Khoa: “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách khoa Toàn thư mà không Viện sĩ nào, không Học giả nào có thể sánh được. Tôi đã có dịp tò mò hỏi ông về Hà Nội và rất ngạc nhiên. Tôi không ngờ ông hiểu Hà Nội sâu sắc đến thế. Tôi gọi ông là Nhà Hà Nội học, dù ông không nghiên cứu.”

– Tô Hoài: “Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi.”

  1. 2. Tác phẩm Vợ Chồng A Phủ

  2. a. Hoàn cảnh sáng tác:

– Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thắm thiết với người và cảnh Tây Bắc. Cũng trong chuyến đi này, cuộc sống của đồng bào miền núi đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để Tô Hoài hoàn thành “Truyện Tây Bắc” (1953).

– Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” gồm 2 phần (Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, Mị và A Phủ ở Phiềng Sa). Đoạn trích được học thuộc phần 1.

* Nhận xét về truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”:

– Nói về Mị, nhà văn Tô Hoài tâm huyết rằng: “Số phận của cô là sự hồi sinh mãnh liệt của con người cô. Sự hồi sinh của một con người là vô cùng quý giá.”

– Phan Anh Dũng: “Thật khó để tìm được một nhà văn thứ hai vừa có thể miêu tả chân thật, tinh tế những cung bậc cảm xúc của cô Mị yêu sống nhưng bị giam cầm trong cảnh tù túng của Vợ chồng A Phủ”.

  1. b. Chủ đề:

Truyện nói về cuộc sống tối tăm, khổ nhục và quá trình tự vùng lên, đi theo cách mạng, đấu tranh với kẻ thù, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi cao Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất.

  1. c. Tóm tắt truyện

Truyện kể về cuộc đời đôi thanh niên nam nữ người Mông là Mị và A Phủ. Mị là cô gái trẻ đẹp, tài hoa, bị bắt cóc về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cô bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần. Cô định tự tử nhưng vì thương cha, cô đành sống âm thầm, đau khổ. Tuy nhiên ở Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, vẫn khát khao tình yêu, hạnh phúc và cuộc sống tự do. Vào đêm tình mùa xuân, khi nghe tiếng sáo gọi bạn, Mị bỗng nhớ lại quá khứ êm đẹp và muốn đi chơi Tết. Nhưng những khát vọng cháy bỏng của cô đã bị chồng là A Sử dập tắt, hắn trói đứng Mị trong buồng tối. Còn A Phủ, anh làm một thanh niên nghèo khổ, mồ côi, khỏe mạnh, lao động giỏi. Vì đánh A Sử – con trai thống lí nên A Phủ phải làm nô lệ cho nhà thống lí để trừ nợ. Một lần, A Phủ để hổ vồ mất một con bò, anh bị thống lí trói đứng, bỏ đói. Lúc đầu, Mị thản nhiên trước cảnh A Phủ bị trói. Nhưng khi nhìn thấy nước mắt của A Phủ, Mị đã cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng anh chạy trốn khỏi Hồng Ngài. Khi đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ trở thành vợ chồng, được A Châu giác ngộ cách mạng, họ tham gia du kích đánh Tây.

Xem thêm: Gia sư môn Văn tại Hà Nội

Phần II. Hướng dẫn phân tích thân bài tác phẩm Vợ Chồng A Phủ

  1. II. ĐỌC – HIỂU TRUYỆN NGẮN VỢ CHỒNG A PHỦ

  2. 1. Nhân vật Mị:

  3. a. Sự xuất hiện của nhân vật Mị:

– Xuất hiện lần đầu tiên trong đoạn văn mở đầu: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối, cô ấy đều cúi mặt, mặt buồn rười rượi… cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.” Xuất hiện gián tiếp qua lời người kể.

– Dụng ý nghệ thuật:

+ Để giới thiệu nhân vật, tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật cho nhân vật xuất hiện qua cái nhìn của những người đến nhà Pá Tra, quan sát Mị trong bối cảnh tương quan không gian và thời gian với những việc làm cố định, gắn cô với hình ảnh “tảng đá”, “tàu ngựa” tạo nên biểu tượng cho sự đau buồn câm lặng trước sự thống trị của nhà Pá Tra. Sự xuất hiện của Mị tạo ấn tượng đậm nét trong trí người đọc, để từ đó, bắt đầu kể chuyện về cuộc đời, số phận và tính cách nhân vật.

+ Sau khi cho nhân vật xuất hiện ngay ở đầu tác phẩm, tác giả sử dụng thủ pháp hồi cố để kể lại những sự kiện chính trong cuộc đời Mị, từ đó, giúp người đọc hiểu được những nỗi đau khổ, bất hạnh Mị đã trải qua, lí giải nguyên nhân sự câm lặng và nỗi buồn trên gương mặt Mị.

  1. b. Số phận éo le và khốn khổ của Mị:

* Trước khi thành con dâu nhà thống lí:

– Mị là cô gái xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên yêu đời, là mơ ước của bao trai làng: “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.” (so sánh vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều: “Kiều càng sắc sảo mặn mà/ So bề tài sắc lại là phần hơ”)

Đọc thêm:  Soạn bài Dấu ngoặc đơn và dấu hai chấm ngắn nhất - Soạn văn lớp 8

– Mị là cô gái chăm chỉ, hiếu thảo và có lòng tự trọng. Cô đã xin bố cho “cuốc nương làm ngô”, “giả nợ thay cho bố” và “đừng bán con cho nhà giàu”.

– Mị xứng đáng sống hạnh phúc nhưng rồi Mị phải sống những tháng ngày đọa đày trong đau khổ, tủi nhục.

* Nguyên nhân Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra:

– Ngày trước, cha mẹ Mị phải vay tiền của nhà thống lí để làm đám cưới, cho tới khi Mị ra đời, mẹ Mị mất, Mị sắp đến tuổi lấy chồng, món nợ vẫn không trả được.

– Thống lí Pá Tra đến nói với bố của Mị: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho”.

– Rồi Mị bị A Sử – con trai thống lí bắt cóc về làm vợ theo tục cướp dâu (chỉ khác là Mị không hề có tình yêu với A Sử)

à Chi tiết này tố cáo chế độ cho vay nặng lãi, bóc lột người nghèo một cách dã man của bọn thống trị vùng Tây Bắc thời kì trước Cách mạng tháng Tám.

* Những ngày mới về làm dâu:

– “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc” vì Mị phải sống với kẻ mà cô không yêu. Hơn nữa bề ngoài Mị là con dâu thống lí nhưng bên trong cô là con nợ. Một con nợ thông thường dù khốn khổ vẫn hi vọng một ngày nào đó sẽ trả hết nợ, thoát khỏi thân phận con nợ. Nhưng Mị thì khác. Mị là con nợ cũng lại là con dâu, linh hồn Mị đã đem “trình ma” nhà thống lí. Mị không thể thoát được.

– Không thể chịu đựng hơn sự áp chế cả thể xác lẫn tinh thần của cha con thống lí, Mị trốn về nhà gặp cha, cô tính ăn lá ngón (một thứ lá độc) để tìm sự giải thoát. Nhưng trước những lời thống thiết của cha, Mị không muốn cha Mị buồn khổ hơn, cô nén nỗi đau riêng đành trở lại nhà thống lí.

* Những ngày tháng sau đó:

– Mị chấp nhận cảnh sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, âm thầm, lặng lẽ. Sau này, Mị cũng không nghĩ đến tự tử nữa. Tác giả cắt nghĩa: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” để lí giải tình trạng nhân vật bị đày đọa đến mức tê liệt về tinh thần, buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh.

– “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”. Lúc nào Mị cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi.”

– Bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận. Nhưng Mị còn phải chịu đựng nỗi đau về tinh thần triền miên. Nhà văn miêu tả căn buồng của Mị ở trong nhà thống lí như một nhà tù “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”.

à Mị bị đày ải bởi lao động khổ sai ở nhà thống lí nhưng đáng sợ hơn là sự đày đọa về tinh thần. Nó làm cho Mị sống mà như đã chết.

Tóm tại, qua số phận éo le, khốn khổ của Mị tác giả tố cáo tội ác của bọn thực dân, chúa đất, đồng thời bộc lộ sự cảm thông sâu sắc với người lao động nghèo, làm nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

  1. c. Diễn biến tâm lý của Mị qua những lần nghe tiếng sáo:

– Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.

Cảnh mùa xuân

– Tác giả lấy khung cảnh mùa xuân, đêm xuân làm nền cho diễn biến tâm trạng của Mị. Mùa xuân, đất trời tưng bừng màu sắc, rộn rã âm thanh, rất gần gũi với quãng đời hồn nhiên, vui vẻ ngày trước của Mị: “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió vã rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.”

à Đoạn văn tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc với những hình ảnh đặc sắc sinh động và đầy sức sống: màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa, tiếng cười ầm của đám trẻ con, tiếng sáo thổi réo rắt rủ bạn tình đi chơi, tiếng chó sủa xa xa… đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn Mị. Sức sống tưng bừng của vạn vật mùa xuân đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh. Tâm trạng Mị lúc này pha trộn giữa nhiều cung bậc cảm xúc: vui sướng và đau khổ, tủi nhục đến mức muốn chết và khao khát sống. Những cảm xúc ấy đang trỗi dậy, cuộn xoáy, trào dâng trong lòng Mị.

Nghe bài hát quen thuộc

– Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn trên sân chơi đầu bản thì Mị thiết tha bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình từ đầu núi vọng lại. Mị nhẩm thầm bài hát quen thuộc:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu.”

à Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc của tiếng sáo hàm chứa lẽ sống tự do, phóng khoáng của con người. Tiếng sáo đánh thức đời sống ý thức, làm hồi sinh tâm hồn Mị, bừng lên sức sống tiềm ẩn trong Mị. Sau bao năm câm lặng trong đau khổ, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khe khẽ cất tiếng hát thầm, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa xa.

Uống rượu

– Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát.”

à Cái cách uống rượu “ực từng bát” của Mị khiến ta nghĩ cô như đang uống đắng cay của phần đời đã qua và cô như đang uống cái khát khao của phần đời chưa tới. Rượu có thể làm cơ thể và đầu óc Mị say nhưng tâm hồn cô thì đã tỉnh lại sau bao tháng ngày câm nín bởi sự đọa đày khốn khổ.

Nghe tiếng sáo

– Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, men rượu đánh thức nỗi nhớ về phần đời đã qua: “Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn tình”. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo: “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị: “Mị thổi sáo giỏi… có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng sống như ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị.

Đọc thêm:  Soạn bài Ngữ cảnh | Ngắn nhất Soạn văn 11 - VietJack.com

– Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp: Cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu.

– Mải mê chìm đắm trong quá khứ nên Mị tạm quên hiện tại: “Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau, Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi Mị từ từ bước vào buồng”.

à Tâm trạng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.

Chuẩn bị đồ đi chơi

– Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy trong lòng khiến Mị càng thêm một phẫn uất trước tình cảnh tủi nhục của mình. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ trong đầu khiến cho Mị thiết tha bồi hồi:

“Anh ném pao, em không bắt,

Em không yêu, quả pao rơi rồi…”

– Khi A Sử bất ngờ vào buồng để thay áo mới, tiếp tục đi rình bắt thêm con gái nhà người ta đem về làm vợ; “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách.”

à Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi với tay lấy váy hoa… là Mị đã thực sự sống lại thời con gái với bao ước mơ tươi đẹp. Mị đã bừng tỉnh, quá khứ, hiện tại đan xen trong tâm hồn Mị. Hiện tại thì tăm tối, ngột ngạt, mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lơ lửng bay ngoài đường, đánh thức quá khứ đẹp đẽ chưa xa.

A Sử trói Mị

– Những hành động khác thường của Mị đã bị A Sử trấn áp. Sau câu hỏi ngạc nhiên và giận dữ: “Mày muốn đi chơi à?”, A sử trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, Mị chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Tuy vậy, ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị hoàn toàn khác, một cô Mị đang say mê sống với những kỉ niệm tình yêu.

à A Sử chỉ trói buộc được thể xác chứ không thể trói buộc được tâm hồn Mị.

– “Hơi rượu nồng nàn nâng đỡ tâm hồn Mị. Tai Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. Tuy Mị chưa giải thoát được thể xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm hồn. “Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách… Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.”

– Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. “Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.”

Mị nhớ về những người đàn bà ở nhà thống lí

– Mị bàng hoàng tỉnh… Không một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan… Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: “đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết, cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt.”

– Tóm lại, ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa! Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ.”

  1. d. Mị cởi trói cho A Phủ trong đêm đông:

– A Phủ đánh A Sử nên phải làm nô lệ tả nợ cho thống lí Pá Tra. Do sơ ý để hổ bắt mất một con bò nên anh bị thống lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài.

– Lúc đầu, Mị vô cảm “thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Từ mùa xuân năm trước, khi bị trói đứng, Mị đã trở lại con người trước kia chai sạn, vô cảm, cam chịu. Cô đã không còn quan tâm đến chính cuộc sống của mình huống gì là người khác.

– Nhưng sau đó, khi nhìn thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má xám đen lại” của A Phủ, Mị đồng cảm với nỗi đơn độc và tuyệt vọng của anh ta. Mị nhớ lại tình cảnh của mình năm trước khi bị trói đứng “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Sự đồng cảm bắt nguồn từ sự thương cảm bởi có thương mình thì mới thương người, “thương người như thể thương thân”. Mị nhận ra nỗi đau đớn của mình năm trước trong nỗi đau của A Phủ. Tô Hoài miêu tả diễn biến tâm lý rất tự nhiên, phù hợp.

– Mị tỉnh táo nhận ra sự độc ác của cha con nhà thống lí, của bọn chúa đất phong kiến “chúng nó thật độc ác”, thấy lo A Phủ sẽ “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Và Mị thấy sự vô lí “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế…”.

– Rồi “Mị nhớ lại đời mình. Mị tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó. Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ” -> Lúc này, Mị đang trào dâng nỗi thương xót, thông cảm cảnh ngộ của A Phủ, căm ghét cha con thống lí nên cô không thấy sợ.

Đọc thêm:  Dàn ý Chí khí anh hùng chi tiết nhất (6 Mẫu) - Văn 11 - Download.vn

– Lòng trắc ẩn của người đàn bà đau khổ trỗi dậy đã đem lại sức mạnh cho Mị hành động: táo bạo, dũng cảm.

– Mị cắt dây trói, cứu A Phủ “rón rén bước lại, rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”, nhưng Mị không cảm thấy sợ, lúc này tình thương mạnh hơn nỗi sợ. Mị giục A Phủ chạy trốn.

– Mị “đứng lặng trong bóng tối” giằng xé, suy nghĩ đi hay ở. Ở lại thì chỉ có con đường duy nhất là chết thay A Phủ, còn bỏ trốn thì may ra tìm được một con đường sống.

– Nhìn thấy hình ảnh A Phủ dù đã kiệt sức nhưng vẫn vùng lên chạy, Mị như được thêm sức mạnh và cô vụt chạy ra, băng đi, đuổi kịp A Phủ. Cô nói: “A Phủ cho tôi đi”, “Ở đây thì chết mất”. -> Mị đâu sợ chết. Mị đã từng tìm đến cái chết. Câu nói này của Mị cho thấy Mị không muốn tiếp tục sống cuộc đời như kiếp con trâu con ngựa nữa.

à Với màu sắc dân tộc đậm đà, chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật tinh tế, sắc sảo, đoạn trích cho thấy Mị cứu A Phủ vì thương người cùng cảnh ngộ với mình, cắt dây trói cứu A Phủ cũng chính là cắt đứt sợi dây trói đời mình với nhà thống lí Pá Tra. Mị cũng tự cứu đời mình vì khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc. Qua đó cũng cho thấy tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Mị, cũng là của người dân lao động bị áp bức ở vùng núi Tây Bắc.

  1. 2. Nhân vật A Phủ:

– A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những tính cách, phẩm chất vừa khiến người ta xót thương vừa khiến người ta ngưỡng mộ hơn.

– A Phủ là chàng trai có hoàn cảnh gia đình bất hạnh: A Phủ phải chịu đựng sự cơ cực, vất vả, những năm tháng thơ ấu. Trận dịch đậu mùa khi A Phủ mười tuổi đã cướp đi gia đình, bố mẹ, anh chị em, để lại một mình A Phủ bơ vơ. Tình cảnh ấy khiến người đọc xúc động.

– A Phủ là người khỏe mạnh, gan dạ và dũng cảm:

+ A Phủ đã vượt lên trên mọi khó khăn của hoàn cảnh để sống và trở thành một chàng trai khỏe mạnh và dũng cảm. A Phủ đã trốn lên Hồng Ngài làm thuê. Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện suốt bao năm, A Phủ trở thành một chàng thanh niên gan dạ, dũng cảm đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau của cuộc đời A Phủ.

+ Từ khi trưởng thành, A Phủ đã chứng tỏ mình là một người gan góc, liều lĩnh, không chịu khuất phục “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất giỏi”. Chính nghị lực và sức khỏe của anh đã khiến cho nhiều người yêu mến. Vào những ngày tết, “A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”.

+ Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ trở thành nô lệ. A Phủ không chịu khuất phục. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Những câu văn rất chân thật miêu tả cảnh xử kiện mang tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người dân Tây Bắc.

+ Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng núi công việc: “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa,…”, việc gì A Phủ cũng làm.

– Vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ thật thà vác về nửa con bò hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí “Cho tôi mượn cây súng. Tôi đi lấy con hổ về.” Anh coi đó là một việc rất dễ dàng. Thống lí không cho, anh cãi lại. Anh không sợ cái uy quyền của nhà thống lí, không sợ chết.

– Bị trói đứng, đói, khát trong cái lạnh cắt da, A Phủ không cam chịu, anh nhai đứt hai vòng dây trói song không thoát. A Phủ khóc tuyệt vọng.

– Nước mắt của chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do phải cay đắng buông tay trước số phận nghiệt ngã làm rung động trái tim người đọc. Ta càng thấy rõ hơn bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến ở miền núi.

à Nhân vật A Phủ đã được khắc họa thành công. Sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố giúp nhà văn dựng được một hình tượng đặc sắc chỉ bằng vài nét bút. Thông qua nhân vật A Phủ, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng đậm nét.

Phần III. Hướng dẫn phân tích kết bài tác phẩm Vợ Chồng A Phủ

  1. 3. Giá trị về nội dung và nghệ thuật:

* Nội dung:

– “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do.

* Nghệ thuật:

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật.

– Nghệ thuật miêu tả sống động cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt gắn với phong tục tập quán các dân tộc vùng núi.

– Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, vừa truyền thống vừa sáng tạo.

– Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc dân tộc, giàu tính tạo hình và giàu chất thơ.

B. SƠ ĐỒ TƯ DUY TÓM TẮT BÀI VỢ CHỒNG A PHỦ

Sơ đồ tư duy bài Vợ Chồng A Phủ

MỞ RỘNG: CÁC NỘI DUNG CÓ THỂ XEM THÊM

1. Hướng dẫn phân tích các bài Văn và Thơ cho kỳ thi THPT

1. 1 Các bài phân tích Văn

+ Hạnh phúc của một tang gia – Vũ Trọng Phụng

+ Chí Phèo của Nam Cao

+ Hai đứa trẻ của Thạch Lam

+ Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)

+ Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

+ Ông già và biển cả của HÊ-MINH-UÊ

+ Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

+ Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

+ Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

+ Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

+ Phân tích bài Hồn Trương Ba, da hàng thị – Lưu Quang Vũ

+ Vợ Nhặt của Kim Lân

1. 2 Các bài phân tích Thơ

+ Phân tích bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng

+ Phân tích bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu

+ Phân tích bài thơ Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm

+ Phân tích bài thơ Sóng – Xuân Quỳnh

2. Kênh tuyển sinh THPT Quốc Gia

– Lịch thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia năm 2023

– Cách tính điểm thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia

– Khối C, tổ hợp của khối C, các ngành khối C, các trường ĐH có khối C

– Khối D, tổ hợp của khối D, các ngành khối D, các trường ĐH có khối D

– Đề thi minh họa môn Văn năm 2022

Gia Sư Thành Tài – đơn vị chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung.

Đánh giá bài viết

Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!

Dustin Đỗ

Tôi là Dustin Đỗ, tốt nghiệp trường ĐH Harvard. Hiện tôi là quản trị viên cho website: www.hql-neu.edu.vn. Hi vọng mọi kiến thức chuyên sâu của tôi có thể giúp các bạn trong quá trình học tập!!!

Related Articles

Back to top button