Phân tích hình tượng sóng trong bài Sóng của Xuân Quỳnh
Tham khảo tài liệu hướng dẫn làm văn phân tích hình tượng sóng trong bài Sóng do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm gợi ý cách làm bài, dàn ý chi tiết cùng một số bài văn mẫu hay về hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
Hướng dẫn phân tích hình tượng sóng trong bài Sóng (Xuân Quỳnh)
Hình tượng “sóng” trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh là lời giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của tác giả. Hãy phân tích và chứng minh vấn đề trên.
1. Phân tích đề
– Yêu cầu của đề bài: phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong bài Sóng của Xuân Quỳnh.
– Phương pháp lập luận chính: phân tích.
2. Hệ thống luận điểm
– Luận điểm 1: Sóng – bản chất và quy luật của người phụ nữ khi yêu
– Luận điểm 2: Sóng – những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn tình yêu
– Luận điểm 3: Sóng – nỗi nhớ, lòng thủy chung của người phụ nữ khi yêu
– Luận điểm 4: Sóng – khát vọng tình yêu vĩnh cửu.
3. Sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy phân tích hình tượng sóng trong bài Sóng
Xem thêm: Sơ đồ tư duy bài Sóng của Xuân Quỳnh
4. Lập dàn ý chi tiết
a) Mở bài
– Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
+ Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ giàu bản sắc trong nền thi ca Việt Nam hiện đại
+ “Sóng” là bài thơ tình đặc sắc, thể hiện khát vọng tình yêu đắm say của người con gái trong mối tình đầu.
– Giới thiệu hình tượng sóng: Hình tượng sóng thể hiện những trạng thái người phụ nữ trong tình yêu thấm đẫm chất trữ tình trong sáng.
b) Thân bài
Luận điểm 1: Sóng – bản chất và quy luật của người phụ nữ khi yêu
– Sóng giống như người phụ nữ đang yêu lúc “dữ dội” lúc lại “dịu êm”.
– Sóng mang trong mình những tính chất đối lập: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, đó cũng là bản tính của phụ nữ khi yêu (mãnh liệt nhưng sâu lắng).
– Sóng không bằng lòng sống ở một nơi chật hẹp, “không hiểu mình” nên luôn khát khao, quyết liệt “tìm ra tận bể” rộng lớn. -> Khát vọng vươn tới sự tuyệt đích trong tình yêu của người phụ nữ, sẵn sàng từ bỏ không gian nhỏ hẹp để đến một nơi khoáng đạt hơn.
– Trước thời gian “ngày xưa – ngày sau”, những con sóng vẫn luôn dạt dào, sôi nổi, khát khao không gian bao la, vươn tới tình yêu.
– Cũng như sóng, trái tim của tuổi trẻ luôn khát khao tình yêu mãnh liệt, “bồi hồi trong ngực”, đó là quy luật vĩnh hằng.
Luận điểm 2: Sóng – những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn tình yêu
– Xuân Quỳnh nỗ lực để cắt nghĩa tình yêu nhưng không được.
+ Xuân Quỳnh tìm kiếm nguồn cội của sóng “Từ nơi nào sóng lên”, đồng thời thể hiện sự trăn trở, muốn khám phá chính bản thân mình, người mình yêu và tình yêu (“em”, “anh”, “biển lớn”).
+ Nữ sĩ tự đặt câu hỏi và tự lí giải bằng quy luật của tự nhiên: “sóng bắt đầu từ gió…” nhưng nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu đều bí ẩn, khó lí giải. -> Lời thú nhận hồn nhiên nhưng sâu sắc.
Luận điểm 3: Sóng – nỗi nhớ, lòng thủy chung của người phụ nữ khi yêu
– Nỗi nhớ bờ của sóng bao trùm mọi phạm vi không gian: “dưới lòng sâu – trên mặt nước”, phạm vi thời gian “ngày – đêm”, biện pháp nhân hóa “không ngủ được” càng nhấn mạnh nỗi nhớ. -> Nỗi nhớ lúc nào cũng cháy bỏng và khiến con người ta cồn cào không yên.
– Không chỉ bày tỏ gián tiếp nỗi nhớ qua sóng mà người phụ nữ bày tỏ trực tiếp nỗi nhớ của mình “lòng em nhớ đến anh”, nỗi nhớ luôn thường trực trong suy nghĩ, ăn sâu vào tiềm thức “cả trong mơ còn thức”.
– Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.
– Tấm lòng thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về “phương anh” bằng cả trái tim.
– Quy luật tất yếu của “trăm ngàn con sóng” là tìm đến “bờ” dù có “muôn vời cách trở” cũng như người phụ nữ khi yêu luôn hướng đến người mình yêu, tìm kiếm tình yêu đích thực dù phải trải qua bao khó khăn thử thách.
Luận điểm 4: Sóng – khát vọng tình yêu vĩnh cửu
– Sóng là sự lo âu, trăn trở của người phụ nữ về sự nhỏ bé của mình trước cuộc đời rộng lớn, sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô hạn, sự dễ đổi thay của lòng người trước dòng đời đầy biến động.
– Ẩn sâu trong ý thơ vẫn là niềm tin, hi vọng mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng “Như biển kia dẫu rộng… bay về xa.”
– Sóng chính là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt, trường tồn: khát vọng được “tan ra” “thành trăm con sóng nhỏ” để được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu”, để tình yêu bất diệt, vĩnh cửu.
– Đó cũng là khát khao chia sẻ và tan tình yêu nhỏ bé với tình yêu chung rộng lớn của cuộc đời.
c) Kết bài
– Khái quát ý nghĩa hình tượng sóng
– Cảm nhận của em về hình tượng sóng.
» Tham khảo thêm: Dàn ý phân tích hình tượng sóng trong bài Sóng – Xuân Quỳnh
TOP 5 bài văn hay phân tích hình tượng sóng trong bài Sóng – Xuân Quỳnh
Phân tích hình tượng Sóng bài số 1:
Xuân Quỳnh được coi là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ của bà luôn chứa đựng những xúc cảm sâu lắng và suy tư tinh tế, không chỉ trong những khoảnh khắc hạnh phúc mà còn trong những thời điểm đau khổ. Đặc biệt, khi viết về chủ đề tình yêu từ góc nhìn của một người phụ nữ đã trải qua thất bại trong hôn nhân và tìm thấy niềm vui, hạnh phúc mới, với sự đằm thắm và mặn mà của thiên chức làm mẹ và làm vợ.
Nổi tiếng với nhiều tác phẩm đáng chú ý như “Thuyền và biển”, “Hoa cỏ may”, “Tự hát”, “Nói cùng anh”,… Xuân Quỳnh đã mang đến một giọng điệu ấm áp, dịu dàng và tràn đầy sự tươi trẻ. Trong số đó, tác phẩm “Sóng” cũng là một tác phẩm xuất sắc viết về tình yêu với hình tượng sóng tượng trưng cho người phụ nữ trẻ trong cuộc hành trình tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc vừa sôi nổi và nhiệt huyết lại vừa mang đến cảm giác e ấp và tinh tế.
“Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể”
Sóng luôn mang trong mình hai cá tính đối lập, một mặt là ồn ào mãnh liệt, nhiệt huyết và sôi nổi trong khi mặt khác lại mang sự êm đềm, lặng lẽ và dịu dàng. Tuy nhiên, điều chắc chắn là sóng luôn chứa đựng những khát khao được thấu hiểu và chia sẻ. Sóng sẵn lòng từ bỏ sự yên bình của con sông, để trải rộng ra khơi lớn, để tìm kiếm những cảm xúc mới, để thỏa sức vẫy vùng, giống như khao khát lớn lao trong tình yêu của người phụ nữ. Sóng đại diện cho hình ảnh người phụ nữ trẻ hiện đại khi đối mặt với tình yêu, vẫn giữ những giá trị truyền thống của phụ nữ Việt Nam, song cũng khẳng định cái tôi cá nhân mạnh mẽ, khiến người phụ nữ trở nên kiên cường và sáng tạo hơn trong tình yêu để tìm thấy hạnh phúc thực sự trong cuộc sống.
Hơn nữa, người ta nhận ra rằng những đợt sóng sôi nổi là biểu tượng của tình yêu mãnh liệt, đam mê, là tình yêu trong sáng của những người trẻ, khi họ khao khát bộc lộ bản thân một cách ồn ào và mãnh liệt khi ở bên nhau, nhưng cũng có những khoảnh khắc họ dừng lại, lắng nghe nhịp đập của trái tim để hiểu nhau hơn.
“Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ”
Thông qua hình tượng sóng, những nét đẹp tinh tế, hồn nhiên và trong sáng trong tâm hồn của người phụ nữ được bộc lộ một cách tự nhiên. “Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế”, đó là sự trung thành sắt son một lòng đối với tình nhân, tình yêu thuở nào vẫn say đắm cho đến tận ngày nay, những khát vọng mãnh liệt về tình yêu vẫn làm rung động trái tim người con gái, không những không bao giờ thay đổi mà còn thêm đậm sâu. Không chỉ là biểu tượng cho hình ảnh của người con gái, sóng cũng là hiện thân của tình yêu trong cái nhìn của Xuân Quỳnh, một tình yêu nồng nàn, sắt son và mãnh liệt. Những khát vọng tình yêu ấy đã trở thành quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên, luôn khiến trái tim con người phải chao đảo thổn thức trong từng nhịp đập.
“Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên? Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau”
Mỗi ngọn sóng giữa biển cả bao la đều giống như tình yêu của tác giả, không thể nào giải thích được “Từ nơi nào sóng lên?”, có phải từ gió hay từ một nơi nào khác mà không thể nói thành lời. Tình yêu cũng như vậy, không ai có thể lí giải được tình yêu, một khái niệm phức tạp và chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, làm cho con người trở nên hạnh phúc, nhưng cũng có thể mang đến những tổn thương và đau khổ. Người con gái dường như bất lực trước nhận thức về tình yêu của lý trí và điều đó thôi thúc con sóng, thôi thúc tác giả hòa mình thành một phần của biển lớn tình yêu, yêu bằng cả trái tim chân thành và tuyệt vời nhất, vì tình yêu là cảm xúc từ trái tim, mọi lời giải thích trở nên vô nghĩa trước sức mạnh của nó.
“Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh – một phương
Ở ngoài kia đại dương Trăm nghìn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở”
Trong những khổ thơ tiếp theo, thông qua hình tượng sóng đức tính chung thủy của người phụ nữ một lần nữa được thể hiện, đó là nỗi nhớ da diết của người con gái đối với người yêu, tình yêu sâu đậm ấy khiến tác giả suy nghĩ mỗi ngày, mong đến mỗi đêm “Cả trong mơ còn thức”. Đó là sự trung thành, sắt son một lòng, bất kể có đi xa phương Bắc, hay về ngược Nam, trái tim của em vẫn chỉ “Hướng về anh một phương”, tràn đầy trông mong và hi vọng. Ngoài ra, hình tượng của con sóng xa bờ cũng gắn liền với những thử thách, những khó khăn trong tình yêu, là những nỗ lực, cố gắng không ngừng vì tình yêu, vì một kết quả tốt đẹp, giống như con sóng dù xa cách bờ biển đến mức nào cũng tìm đường về để vỗ bờ cát với những tiếng vang mãnh liệt, như những tiếng cười hạnh phúc trong tình yêu của đôi lứa.
“Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ”
Dù sống lạc quan, đắm say và khao khát tình yêu, nhưng Xuân Quỳnh vẫn mang trong lòng những ám ảnh về thời gian và sự chảy trôi của chúng, nỗi sợ rằng tuổi xuân sẽ qua mau, thời gian trôi đi nhưng tình yêu của mình vẫn chưa đủ. Chính vì điều đó, tác giả càng khát khao sống hết mình, đắm chìm vào hạnh phúc của tình yêu. Mong muốn được tan ra, hòa mình vào một tình yêu trọn vẹn, sâu sắc và mãi mãi tồn tại, đó là khao khát vô hạn của người phụ nữ trong tình yêu, trong hạnh phúc của đôi lứa, một tình yêu trong sáng, cao đẹp và chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc.
Sóng và hình tượng sóng là một ý tưởng sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh trong sáng tác. Bằng hình tượng sóng, bà đã tài tình thể hiện những tâm tư đẹp, trong sáng và hồn nhiên của người phụ nữ khi yêu, mang trong mình những cảm xúc mãnh liệt, nồng nàn cùng những giây phút êm đềm và dịu dàng. Từ đó, vẻ đẹp của người phụ nữ được hiện lên một cách tinh tế, thể hiện sự khao khát yêu và được yêu một cách mạnh mẽ và ấm áp, trung thành với những giá trị truyền thống và khát vọng mãnh liệt về một tình yêu vĩnh cửu, bất diệt qua thời gian.
Phân tích hình tượng Sóng bài số 2:
Sóng vỗ vào bờ rì rào rì rào, ngàn năm nay vẫn luôn như thế, dường như sóng với bờ luôn gắn bó, luôn đi liền với nhau. Mượn hình ảnh những con sóng nối nhau liên tiếp xô vào bờ, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã dùng nó để nói lên nỗi khát khao tình yêu, những rạo rực, xôn xao, khắc khoải của một tình yêu nồng cháy trong lồng ngực người phụ nữ. Sóng là hơi thở miên man, trôi chảy, tràn ngập khắp những câu chữ trong bài thơ cùng tên của nhà thơ.
Sóng là biểu tượng, là hình ảnh xuyên suốt tác phẩm, song hành cùng với hình tượng em. Từng con sóng nhấp nhô, rì rào như tâm hồn của người phụ nữ đang yêu đang đứng trước biển Diêm Điền ngắm từng đợt sóng tung bọt trắng xóa. Sóng vô hồi, sóng bất tận, khi là “em”, khi lại là cái tôi của tác giả, khi lại đứng riêng một mình mà thể hiện xúc cảm của mình. Chung quy lại, sóng trong bài thơ thể hiện quy luật bất diệt của tình yêu, những nỗi thao thức, mong chờ, những niềm trăn trở và ước mơ về tình yêu vĩnh cửu của một trái tim yêu đang nồng nàn. Sóng chính là bài thơ khơi gợi cho một hồn thơ vừa nhẹ nhàng, êm dịu lại phong phú, sôi nổi của Xuân Quỳnh.
Sóng luôn ngàn đời vỗ triền miên, bất tận vào bờ cát:
“Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể”
Sóng cứ luôn dạt dào, cứ luôn thao thức cũng như bản chất của một người phụ nữ đang yêu. Tâm trạng bồi hồi, rạo rực, cháy bỏng trong lồng ngực ấy là tâm trạng khi yêu của một người phụ nữ hết lòng vì tình yêu. Tình yêu có lúc êm dịu như tơ nhung, có lúc lại dữ dội, ồn ào như con sóng gào thét, có khi lại tư lự, trầm tư trong suy nghĩ mênh mang. Các cặp từ đối lập “dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ” được Xuân Quỳnh sử dụng liên tục trong hai câu thơ đầu đã làm sáng tỏ cái bản chất của một con sóng hay cũng chính là bản chất của tình yêu của người phụ nữ. Những tính cách ấy đối lập nhau, song song cùng tồn tại, ấy vậy mà lại bổ sung cho nhau, tạo nên một tâm hồn đầy khao khát. Hình tượng con sóng mang đầy những xúc cảm, những trạng thái khác nhau, đối lập nhau, bổ sung cho nhau, biểu trưng cho tâm hồn, cho bản chất chân thành của người phụ nữ, ẩn chứa trong đó là khát vọng tình yêu bồi hồi, cháy bỏng.
Và hành trình của con sóng cứ tiếp nối, tiếp nối từ sông ra tới biển:
“Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể”
Làm sao ở một nơi chật hẹp có thể thấu hiểu hết cái tôi của mình, có thể tìm được bản thân mình trong đó, vậy nên, con “sóng” quyết tâm chảy ra tận “bể” để mà vùng vẫy. Biển mênh mông, dạt dào, trời cao, biển rộng, sóng mới có thể tìm thấy chính mình với sức sống mạnh mẽ, với những khát khao cháy bỏng, to lớn. Sóng ở đây là biểu tượng cho khát vọng tình yêu đích thực của người phụ nữ. Con sóng biến hóa phức tạp, đa chiều thì tình yêu cũng vậy, cũng phức tạp và khó hiểu như thế. Khát vọng được vùng vẫy ở biển lớn tình yêu chính là bản lĩnh kiêu hãnh của người phụ nữ đang yêu. Bởi yêu không thể chỉ bó hẹp trong một thứ xúc cảm mà nó còn là sự tự ý thức, sự thức tỉnh trong khao khát có được tình yêu, khao khát được vươn mình tới những nơi rộng lớn với những cảm xúc mới mẻ.
Con sóng vẫn luôn rì rào nơi biển cả, vậy “con sóng ngày xưa” và “con sóng ngày sau” có gì khác biệt hay chẳng? Không, chẳng có gì khác biệt khi con sóng vẫn luôn triền miên và bất tận như thế. Một phép so sánh nhỏ của tác giả đã khiến cho ta hiểu rằng muôn đời trước, muôn đời sau, sóng vẫn dạt dào và mãnh liệt như thế. Và tình yêu cũng như con sóng kia, nỗi khát khao có được tình yêu cứ mãi dạt dào trong những trái tim trẻ tuổi. Đây là một quy luật vĩnh hằng:
“Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ”
Con sóng bước tới với đại dương để hiểu về mình cũng như “em” tới bên “anh” để hiểu rõ tâm hồn và trái tim của em, con người đích thực của em.
Hình tượng sóng trong hai khổ thơ đầu là sự diễn tả tình cảm tha thiết của một trái tim yêu đang rạo rực. Những nhịp điệu nhẹ nhàng, lúc êm dịu, lúc dữ dội như nhịp điệu của những con sóng đang vỗ vào bờ. Sóng, không chỉ thể hiện tình yêu, nó còn thể hiện cho quy luật vĩnh cửu vĩnh hằng của tạo hóa, cũng là của con người, của tình yêu: sóng luôn có mặt ở “bể” và khao khát yêu thương của con người cũng luôn luôn nồng cháy.
Thế nhưng, tình yêu bắt nguồn từ đâu, bắt nguồn từ khi nào, liệu có ai biết rõ? Những con sóng ngoài khơi xa bắt đầu từ đâu, liệu có ai biết chăng? Và thế là, người con gái băn khoăn tự hỏi bản thân mình hay cũng chính là hỏi những con sóng gợn:
“Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau”
Đó là lời băn khoăn về nguồn cội của sóng, của tình yêu, là những băn khoăn, trăn trở của người con gái muốn được khám phá chính mình, khám phá người mình yêu, khám phá biển lớn. Câu hỏi “khi nào ta yêu nhau”, một câu hỏi mà dường như không thể tìm được một lời lý giải hợp lý, bởi trong tình yêu đâu ai có thể biết trước được điều gì, đâu ai có thể cắt nghĩa được tình yêu:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”
Ngay cả Xuân Diệu – ông hoàng của thơ tình cũng chẳng thể lý giải nổi tình yêu, chỉ một sớm một chiều là nảy nở rực rỡ.
Một câu hỏi mà như diễn tả được tất cả tâm trạng của những đôi trai gái yêu nhau, họ băn khoăn tự hỏi nhau, tự hỏi lòng mình, thế nhưng chẳng ai có thể biết. Nếu như “Sóng bắt đầu từ gió” thì “gió bắt đầu từ đâu”. “Sóng” là biểu tượng của tình yêu, là nỗi khát khao cháy bỏng của nữ thi sĩ, sóng bắt nguồn từ gió, tình yêu bắt nguồn từ những xúc cảm. Vậy xúc cảm bắt nguồn từ đâu? Chẳng ai có thể hiểu rõ! Chính nữ thi sĩ cũng chẳng thể biết được cảm giác tình yêu của mình bắt đầu từ khi nào! Vậy mới thấy cội nguồn của tình yêu, của “sóng” thật quá khó lý giải “từ nơi nào sóng lên”, thật bí ẩn biết chừng nào!
Tình yêu chân thành với những nỗi nhớ triền miên trong tình yêu cứ day dứt, cứ bồi hồi, chiếm trọn lấy không gian, trải dài cả chiều sâu, chiều rộng, bề nổi, bề chìm của thời gian:
“Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được”
Con sóng cứ liên tiếp nối nhau mà xô vào bờ, cũng giống như nỗi nhớ của những người đang yêu, ở bất cứ nơi đâu, sóng cũng trào lên mạnh mẽ, xô vào bờ cát. Phạm vi của sóng mở rộng ra cả không gian, thời gian “dưới lòng sâu – trên mặt biển, ngày – đêm”. Hình tượng sóng ở đây không đơn thuần là biểu tượng cho tình yêu nữa mà nó giống như một thực thể sống động. Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã nhân hóa con sóng trở thành một nhân vật trữ tình với những xúc cảm của một con người thực thụ. Những nỗi nhớ bờ khiến sóng không thể đứng yên mà lúc nào cũng dạt dào vỗ vào bờ cát trắng. Thật tự nhiên, thật thơ mộng, đó là một quy luật không hề biến đổi qua năm tháng. Vì nhớ thương, con sóng cứ ngày đêm thao thức cùng thời gian, cùng đại dương mênh mông. Nỗi nhớ thương da diết trong tình yêu của người phụ nữ đã được Xuân Quỳnh nhấn mạnh trong hai câu thơ này. Tình yêu của người phụ nữ lúc nào cũng mãnh liệt, tha thiết như những con sóng ngoài biển cả.
Không chỉ bộc lộ qua hình ảnh của những con sóng, nhà thơ còn bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ thương của mình qua lời thổ lộ:
“Lòng em nhớ tới anh Cả trong mơ còn thức”
Nỗi nhớ đã ăn sâu, đi sâu vào trong tiềm thức của người phụ nữ, để đến trong mơ, ngẫm lại tình yêu đó cũng chợt mỉm cười hạnh phúc như đang còn thức, như đang mong nhớ người tình của mình. Ở đây, con sóng trở thành một biểu tượng cho tình yêu của người phụ nữ, cũng dạt dào, mãnh liệt, mênh mông và liên tiếp như những con sóng ngoài đại dương đang nối nhau mà xô vào bờ.
Tiếp đến, nhà thơ dùng loại loạt những cặp từ đối lập nhau như “bắc – nam, xuôi – ngược” cùng các điệp từ “dẫu”, “về”, gợi lên hình ảnh của những con sóng cùng hành trình của nó ngoài đại dương xa xôi. Những con sóng cứ mải miết nối nhau gợi lên giữa mênh mông sóng nước, cũng như tình yêu của người phụ nữ và hành trình của cô đi tìm kiếm tình yêu đích thực của mình. Thế nhưng, dù ở bất cứ đâu, sóng cũng tìm cách để vỗ vào bờ, còn “em” dù ở nơi nào cũng luôn đăm đắm về phía “anh”. Nỗi nhớ tình yêu sẽ lấp đầy những khoảng trống về khoảng cách, khó khăn. Hình tượng con sóng ở đây lại chợt biến chuyển trở thành hình ảnh gợi lên sự chờ đợi thủy chung của người phụ nữ, “em” tin vào tình yêu của mình, tin tưởng bằng tất cả tình yêu chân thành, tha thiết nhất, bằng trái tim nhiệt thành.
Bao nhiêu con sóng ngoài khơi xa, “trăm nghìn con sóng nhỏ”, nhưng bất cứ ngọn sóng nào cũng luôn vỗ vào bờ, dù có vượt qua bao nhiêu gian nan, khó khăn và trắc trở. Tình yêu của “em” cũng vậy, “em” bằng lòng vượt tất cả để tìm đến được với tình yêu đích thực của mình.
“Ở ngoài đại dương kia Trăm nghìn con sóng nhỏ Con nào chẳng tới bờ Dẫu muôn vàn cách trở”
Hình tượng con sóng cũng là hình tượng của một tình yêu mãnh liệt, tha thiết của người phụ nữ. Hành trình tìm vào bờ của những con sóng, cũng là hành trình người phụ nữ đi tìm tình yêu của mình với một trái tim tha thiết nhất.
Yêu là thế, mãnh liệt, dạt dào là thế, nhưng không biết được tình yêu ấy có bền vững chăng? Vậy nên, sau tất cả những khát khao về sự tìm kiếm một tình yêu đích thực, người phụ nữ lại trăn trở về khát vọng có được một tình yêu vĩnh cửu. Nhìn những đám mây bay ngang qua mặt biển, những con sóng đang gợn lăn tăn mà nhân vật trữ tình chợt cảm thấy sự ngắn ngủi, nhỏ bé, sự hữu hạn của cuộc đời mình trước thời gian:
“Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa”
Cuộc đời là một hành trình dài thế nhưng không phải là mãi mãi, “năm tháng” vẫn vội vã qua đi, nhanh đến nỗi chính như Xuân Diệu cũng đã từng ước để thời gian ngừng lại:
“Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi”
Từng dòng thơ của Xuân Quỳnh cũng là từng lời trăn trở của nữ thi sĩ về lòng người trước cuộc đời. Biển dẫu rộng mênh mông là thế, mây cũng chẳng dừng chân ở lại vậy thì con người làm sao có thể biết trước được lòng người khác giữa những mênh mông của cuộc đời này? Thế nhưng, sâu trong tâm hồn người phụ nữ vẫn có một niềm tin mãnh liệt với tình yêu của mình, sức mạnh của tình yêu sẽ giúp đôi lứa vượt qua cả không gian, thời gian để mãi mãi vững bền về sau. Những con sóng ở đây như nói hộ tấm lòng của người con gái:
“Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ”.
Sóng lại trở lại là hình tượng của một tình yêu mãnh liệt với một khát vọng được trường tồn. Tình yêu được tạo nên từ những nỗi nhớ thương, từ những con “sóng” nhớ bé, thế nên, nhà thơ ước tình yêu ấy “tan ra” hòa chung với biển lớn tình yêu để trở lên bất diệt. Và đây có lẽ là khát vọng tha thiết và mãnh liệt nhất của người phụ nữ.
Hình tượng sóng trong bài thơ được gợi ra liên tiếp, là biểu tượng cho tình yêu của người phụ nữ đang yêu: mạnh mẽ, êm dịu, đằm thắm. Song hành với đó là khát vọng tìm được tình yêu đích thực, bất diệt trường tồn. Bài thơ là tiếng lòng của một người phụ nữ mong muốn vượt qua tất cả những giới hạn của thời gian, con người, không gian để hướng đến tình yêu vĩnh cửu, đích thực.
Ngay cả nhan đề của bài thơ, Xuân Quỳnh cũng đặt là “sóng”, tất cả âm điệu của bài thơ, nhịp điệu thơ đều nhịp nhàng như tiếng những con sóng vỗ vào bờ. Nhịp thơ hồn nhiên, trong sáng, mạch thơ dìu dặt, êm đềm như âm điệu của những con sóng trên đại dương hay cũng là những con sóng ở trong lòng người phụ nữ.
Đặt bài thơ vào những năm 1967 khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang vào những hồi gay cấn nhất, ta mới hiểu được ý nghĩa nỗi khát khao tình yêu của người phụ nữ đến nhường nào.
Khép lại bài thơ, có một dư âm vẫn còn vang vọng mãi trong lòng người đọc chúng ta. Đó là dư âm về một người phụ nữ với một tấm lòng thủy chung, và khát vọng tình yêu mãnh liệt, khao khát có được tình yêu đích thực của đời mình. Với bài thơ này, Xuân Quỳnh xứng đáng trở thành một trong những nữ thi sĩ xuất sắc nhất trong nền thi ca Việt Nam.
Phân tích hình tượng Sóng bài số 3:
Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là nhà thơ nữ giàu bản sắc trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Chị nổi tiếng với những bài thơ tình: “Hoa cúc xanh”, “Sóng”, “Thuyền và biển”, “Nói cùng anh”, “Mùa hoa doi”,…
Với Xuân Quỳnh thì tình yêu là “nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng”, làm nảy nở bao đức tính tốt, làm cho con người “thực sự Người hơn”. Thơ tình của Xuân Quỳnh lúc nào cũng đằm thắm, nồng nàn, ngọt ngào, mê say. “Sóng” là bài thơ tình đặc sắc, thể hiện khát vọng tình yêu đắm say của người con gái trong mối tình đầu. Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn trường thiên, hình tượng “sóng” là ẩn dụ về “em”, về người con gái đang mang trong trái tim mình một tình yêu đẹp.
Trạng thái của sóng trên biển, lúc thì “dữ dội”, lúc thì “dịu êm”, có lúc lại “ồn ào”, có khi rất lặng lẽ. Và đó cũng là trạng huống tâm tình của lứa đôi trong tình yêu:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”.
Hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là khát vọng muốn vươn tới mọi chân trời mơ ước thương yêu. Sóng trường tồn với đại dương mênh mông cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của gái, trai, của lứa đôi xưa nay. Bởi lẽ “Làm sao sống được mà không yêu – Không nhớ không thương một kẻ nào” (Xuân Diệu), nên tình yêu đã trở thành khát vọng của tuổi trẻ. Lời giãi bày về tình yêu của người thiếu nữ rất chân thực và nồng nàn:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”.
Con sóng tình yêu có vỗ triền miên, vỗ xôn xao trong lòng “Những cô gái da mịn màng như lụa – Những chàng trai đang độ hai mươi” (Hoa cúc vàng) thì mới xúc động “bồi hồi” như vậy. Có yêu đời thiết tha, có yêu cuộc sống một cách nồng hậu, “Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần” (Xuân Diệu) thì mới tìm thấy vị ngọt của tình yêu, khi tình yêu trở thành khát vọng.
Nhìn trùng dương sóng bể, người thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối tình đầu, nghĩ về duyên số, “em nghĩ về anh, em”, và tự hỏi: “Từ khi nào sóng lên”. Cái huyền diệu của vũ trụ, của sóng đại dương cũng như cái huyền diệu của tình yêu thật vô cùng. Thiếu nữ hỏi sóng hay tự hỏi mình, một câu hỏi tràn ngập tình thương yêu:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”.
Tình yêu là sự sống muôn đời nơi “vườn trần” nhưng “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” (Xuân Diệu). Câu thơ “Khi nào ta yêu nhau” diễn tả đúng nỗi niềm những lứa đôi đã chớm vị ngọt của tình yêu nồng nàn, say đắm. Cái giây phút “thắm lại” của lứa đôi trong mối tình đầu, tuy không xác định được, nhưng không bao giờ có thể quên. Thi sĩ Thế Lữ, 70 năm về trước gọi đó là “cái thuở ban đầu lưu luyến” vô cùng đắm đuối và thiêng liêng:
“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?”.
Sóng được nhân hóa, “sóng nhớ bờ”, sóng “ngày đêm không ngủ được”, dù ở “dưới lòng sâu”, hay “ở trên mặt nước”. Sóng ru, sóng reo, sóng hát ca, sóng vỗ suốt đêm ngày trên đại dương mênh mông. Cũng như bến đợi thuyền, thuyền nhớ bến, “thôn Đoài thì nhớ thôn Đông…” người con gái lúc nào cũng bồi hồi thương nhớ:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”.
Đây là câu thơ rất hay nói lên một tình yêu nồng nàn, say đắm. Thiếu nữ đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của mình. Em nhớ anh triền miên, bổi hổi bồi hồi suốt ngày đêm “cả trong mơ” và cả trong lúc “còn thức”. Một chữ “nhớ” tràn ngập tình yêu thương.
Thủy chung là một trong những phẩm chất cao đẹp của tình yêu lứa đôi. Tình yêu cho lứa đôi sức mạnh để vượt qua mọi thử thách “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua”, chiến thắng mọi cách trở về không gian và thời gian. Phương Bắc và phương Nam, dẫu xuôi và ngược… nhưng tình em vẫn thiết tha mặn nồng:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Cấu trúc đoạn thơ: “dẫu … cũng…”, chữ “dẫu” được điệp lại hai lần cho ý thơ được nhấn mạnh, đó là lòng son sắt thủy chung. Các vị ngữ: “cũng nghĩ”, “hướng về” liên kết với số từ “một” (một phương) là sự khẳng định một lời thề đinh ninh, như thi sĩ Tản Đà đã nói trong “Thề non nước”:
“Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa”.
Tình yêu đẹp đem đến cho “em” một niềm tin mãnh liệt. Sóng nhất định tới bờ dù trùng dương có “muôn vời cách trở”. Sóng đã nói hộ lòng về niềm tin, con thuyền tình nhất định sẽ cập bến bờ hạnh phúc:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Xuân Quỳnh trong đời thường tuy đã uống bao vị ngọt tình yêu, nhưng chị cũng đã từng nếm ít nhiều cay đắng trong tình ái. Có điều, mỗi lần đối diện với những thử thách, chị vẫn hồn hậu dào dạt niềm tin về hạnh phúc mà tình yêu nhất định sẽ đem đến. Đây là một khổ thơ giàu ý vị và sáng ngời niềm tin:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”.
“Tuy… vẫn…”, “dẫu… vẫn”, cấu trúc ấy làm cho ý thơ được khẳng định, niềm tin được khẳng định. “Năm tháng” và “mây” là hai hình ảnh ẩn dụ về niềm tin trong tình yêu. Năm tháng sẽ đi qua cuộc đời dài, mây sẽ vượt biển rộng để bay về xa. Có thời gian nào, không gian nào mà con thuyền tình không vượt qua để vươn tới hạnh phúc?
Khổ cuối là lời ước nguyện của em, của người thiếu nữ trong mối tình đầu. Em muốn được “tan ra”, muốn được hóa thân thành “Trăm sóng nhỏ – Giữa biển lớn tình yêu – Để ngàn năm còn vỗ”. Tình yêu không làm cho em bé nhỏ và ích kỉ. Em mơ ước về tình yêu đẹp, bền vững trong hạnh phúc, được yêu và được sống “giữa biển lớn tình yêu” để ngàn năm “còn vỗ”… Ước nguyện ấy mang tính nhân văn cao đẹp.
“Sóng” cũng như nhiều bài thơ tình khác của Xuân Quỳnh phản chiếu một tâm hồn trung hậu, rất yêu đời, sống hết mình với tình yêu, coi tình yêu và hạnh phúc là khát vọng. Lấy hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của người con gái: đinh ninh lời thề, thương nhớ bồi hồi, thủy chung sắt đá, tin tưởng về hạnh phúc tình yêu trọn vẹn vững bền.
Bài thơ cho thấy cái mới và tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Người con gái giãi bày về tình yêu chứ không phải người con gái “được yêu” như trong ca dao, trong nhiều bài thơ tình khác. Cũng là “sóng” ẩn dụ, nhưng trong bài thơ tình “Biển”của thi sĩ Xuân Diệu “sóng” lại là hình ảnh người con trai đa tình:
“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Hôn mãi đến muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt…”.
Qua đó, ta thấy rõ cá tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng, nhịp điệu sóng, và tiếng xôn xao “bồi hồi trong ngực trẻ” về khát vọng tình yêu trong bài thơ tình này đã từng ru biết bao chàng trai cô gái thời áo trắng trong những giấc mộng đẹp!
Phân tích hình tượng Sóng bài số 4:
Nói về đề tài tình yêu trong thơ ca nói chung và trong thơ Xuân Quỳnh nói riêng, không thể không nhắc đến Sóng – một bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng thể hiện những trạng thái người phụ nữ trong tình yêu thấm đẫm chất trữ tình trong sáng.
Hình tượng “Sóng” được tái hiện qua nhạc điệu bài thơ. Hình tượng sóng đi: tả những cảm xúc, những sắc thái tình cảm vừa phong phú đa dạng, vừa thiết tha, sôi nổi của một trái tim đang rạo rực yêu đương. Hình tượng sóng hiện lên qua nhịp điệu nhẹ nhàng, lúc sôi nổi dồn dập, dịu êm, sâu lắng như nhịp sóng ngoài biển khơi, cũng là nhịp của những con sóng tình cảm của một trái tim khao khát yêu đương.
Nhà thơ sử dụng thể thơ 5 chữ với những dòng thơ liền mạch ít ngắt nhịp. Sự trở đi trở lại hồi hoàn của hình tượng sóng, biện pháp điệp từ ngữ, điệp cấu trúc, những từ láy… đã tạo nên nhạc điệu của những con sóng, đợt sóng liên tiếp gối lên nhau lúc tràn lên sôi nổi, lúc lắng lại dịu êm.
Hình tượng sóng mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu và tâm trạng nhân vật trữ tình (người phụ nữ) trong bài thơ. Sóng là biểu tượng cho sự bí ẩn trong tình yêu, biểu tượng cho niềm khát khao một tình yêu lớn, một tình yêu mãnh liệt.
Khổ thơ thứ nhất thể hiện hai trạng thái của sóng cũng là hai trạng thái của tình yêu tưởng như đối lập nhưng rất thống nhất (dữ dội – dịu êm; ồn ào – lặng lẽ). Đó là sự bí ẩn của tình yêu. Cũng như sóng, con người tìm đến với tình yêu” để hiểu mình hơn (Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể).
Khổ thơ thứ hai là sự phát hiện sự tương đồng giữa sóng và quy luật muôn thuở của tình yêu. Sóng “ngày xưa” và sóng “ngày sau” vẫn thế giống như “nỗi khát vọng tình yêu/ bồi hồi trong ngực trẻ”.
Khổ thơ thứ ba và thứ tư tác giả dùng để cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng và nơi bắt đầu của tình yêu. Cái hay của đoạn thơ là sự đầu hàng của nhận thức, là sự bất lực trong lôgic lí trí (Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau).
Sóng là biểu tượng cho nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ. Con sóng thao thức ở mọi chiều không gian, thời gian cũng như: “Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức”. Nhà thơ dùng liên tưởng đan cài để đồng nhất “sóng” và “em”.
Sóng là biểu tượng cho sự thủy chung trong tình yêu của người phụ nữ. Nhà thơ sử dụng kết cấu: dẫu., thì… cùng với những đối lập (xuôi – ngược, bắc – nam) để khẳng định: “Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Ngoài việc khẳng định tình yêu chung thủy, Xuân Quỳnh còn muốn đề cập đến những thử thách trong tình yêu. Tình yêu cho ta sức mạnh vượt qua thử thách và qua thử thách tình yêu càng thêm bền vững.
Sóng là biểu tượng cho những trăn trở, lo âu trong cõi lòng người phụ nữ đang yêu. Đó là nỗi lo âu về cái hữu hạn của đời người, của tình yêu.
… Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Sóng là biểu tượng cho khát vọng mãnh liệt muốn bất tử hóa tình yêu. Nhà thơ sử dụng những đại lượng lớn có tính ước lệ (trăm, ngàn) cùng với những hình ảnh thuộc về vô biên (biển, sóng). Khát vọng của tâm hồn người phụ nữ đang yêu thật mãnh liệt. Đó là khát vọng của muôn đời, muôn người, khát vọng mang giá trị nhân văn sâu sắc, cao đẹp.
Sóng là một hình tượng không mới nhưng trở nên rất đẹp, một vẻ đẹp rất riêng trong cảm nhận của hồn thơ Xuân Quỳnh. Bằng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã nói được những điều giản dị mà lớn lao của tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Khát vọng tình yêu được gửi vào sóng khát vọng thành thực, khẩn thiết, nồng nàn và rất nhân văn.
Phân tích hình tượng Sóng bài số 5:
Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mỹ. Trong giàn đồng ca của thơ trẻ chống Mỹ, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ trẻ trung, đầy nữ tính. Cũng bám sát cuộc sống lao động và chiến đấu anh hùng của con người Việt Nam, nhưng Xuân Quỳnh còn thể hiện được cả một khát vọng mãnh liệt về tình yêu. Điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: vừa khát khao một tình yêu lí tưởng vừa hướng tới một hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên gần như bản năng vậy. Nhắc đến Xuân Quỳnh người ta thường nhắc đến những bài nổi tiếng: “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, “Tự hát”… và nhất là “Sóng” – bài này được rút ra từ tập “Hoa dọc chiến hào”. Có thể nói, “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ này.
Hình tượng bao trùm cả bài thơ này không có gì khác hơn là sóng. Sóng vừa được gợi ra trong một âm điệu rất phù hợp, vừa được tái tạo với hàng loạt ý nghĩa phong phú của nó. Một bài thơ chân chính bao giờ cũng tác động vào tâm hồn người đọc trước tiên bằng âm điệu của nó. Người đọc còn chưa kịp hiểu chi tiết hình ảnh thì đã bị cuốn theo âm điệu, nói một cách khác, âm điệu đã xâm chiếm tâm hồn người đọc. Âm điệu của một bài thơ bao giờ cũng là sự hoà điệu nhuần nhụy giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ. Vì thế âm điệu chứa đựng tính chất của tình cảm thơ. Ẩn náu trong âm điệu là cái hồn, cái thần của xúc động thơ. Vì những lý do ấy mà đọc thơ điều trước tiên và cũng là khó nhất, ấy là phải cảm nhận và nắm bắt cho được âm điệu của nó.
Đọc bài thơ “Sóng”, chúng ta còn chưa hiểu các ý nghĩa của sóng nhưng ai cũng dễ bị âm điệu cuốn hút. Bởi âm điệu thơ ở đây cũng là âm điệu của sóng biển. Thi sĩ đã khéo đưa nhịp triền miên của sóng vào thơ hay sóng biển đã khuấy động hồn người tạo nên sóng lòng và sóng lòng đã tràn ra câu chữ mà thành sóng thơ?
Âm điệu thơ phụ thuộc khá nhiều vào thể loại. Xem ra, thể thơ ngũ ngôn ở đây đã phát huy được sở trường riêng của nó. Khéo khai thác sự biến hoá phong phú về cả vần và nhịp của ngũ ngôn, Xuân Quỳnh đã sử dụng nhuần nhuyễn nhịp thơ để tạo ra nhịp sóng. Nói riêng khổ thơ đầu, hai câu đầu đi nhịp 2/7/3:
Dữ dội / và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
thì hai câu tiếp theo đã chuyển nhịp 3/2 (cầu kỳ hơn là 1/2/2):
Sóng/ không hiểu /nổi mình
Sóng/ tìm ra tận bể
Nhịp thơ thay đổi như vậy đã giúp Xuân Quỳnh mô phỏng được nhịp sóng vốn biến đổi rất mau lẹ, biến hoá không ngừng. Cách tổ chức ngôn từ cũng góp phần tạo ra âm điệu của bài thơ. Thi sĩ đã triệt để tận dụng lối tổ chức theo nguyên tắc tương xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành những cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đáp đổi nhau về bằng trắc nữa. Vế tiếp vế, câu tiếp câu. Ở đây vừa “dữ dội và dịu êm” – “ồn ào và lặng lẽ”, ngay đó đã là:
“Ôi con sóng ngày xưa – và ngày sau vẫn thế…
cứ thế:
– Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
– Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
– Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam …
Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã xuất hiện, tựa như con sóng này vừa lịm xuống, con sóng khác đã trào lên. Nhờ đó âm điệu thơ gợi được hình ảnh những con sóng trên mặt biển, cứ miên man, khi thăng khi giáng, khi bổng khi trầm, vô hồi vô hạn. Ta cứ thấy trong âm điệu nhấp nhô những con sóng nối tiếp nhau, gối đầu lên nhau, xô đuổi nhau bất tận. Vậy là, trước khi sóng hiện hình qua những hình ảnh cụ thể thì chúng ta đã nghe thấy tiếng sóng trong âm hưởng, âm điệu.
Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ. Nhưng cũng cần phải thấy thi phẩm này có một lối cấu trúc hình tượng khá độc đáo. Mỗi bài thơ thường vẽ ra hình tượng tác giả của nó. Hình tượng tác giả trong bài thơ không hề đồng nhất với con người thi sĩ ở ngoài đời. Nhà thơ thường chọn một tư thế một dáng điệu trong thơ để phô diễn tâm tình của mình sao cho phù hợp nhất. Có thể Xuân Quỳnh viết bài thơ này tại nhà của mình. Nhưng hình tượng tác giả trong bài thơ lại là người phụ nữ đang đứng trước biển, đối diện với đại dương, với sóng để suy tư ngẫm nghĩ và khát khao. Mỗi một phát hiện về sóng người phụ nữ ấy lại liên tưởng đến mình và tình yêu. Bởi thế, mỗi một khám phá về sóng cũng là một khám phá về chính mình. Xuân Quỳnh nhìn thấy mình ở trong sóng và thấy sóng ở trong mình. Vì thế mà sóng là hoá thân, là phân thân của cùng một cái tôi Xuân Quỳnh. Sóng và Em trở thành hai hình tượng xuyên suốt, khi tách rời, khi hoà nhập, chuyển hoá sang nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đến nỗi, ta có thể khẳng định sóng là cái tôi thứ hai của Xuân Quỳnh, mỗi một khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi một khổ thơ, sóng lại hiện lên một ý nghĩa khác. Cho nên không thể lược qui riêng vào một ý nghĩa nào, mà phải nắm bắt hình tượng sóng với tất cả các ý nghĩa của nó. Và chỉ có thể nói rằng sóng là tâm hồn, là khát vọng, là tình yêu của người phụ nữ mà thôi.
Mở đầu bài thơ, sóng hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nữ tính. Nghĩ thật thú vị, nam thi sĩ Xuân Diệu thấy sóng biển là một chàng trai đang yêu bờ đắm đuối cuồng nhiệt. Còn nữ sĩ Xuân Quỳnh lại thấy sóng mang trong nó khí chất của người phụ nữ. Có phải nhà thơ trữ tình thường có thiên hướng áp đặt cái tôi của mình vào đối tượng chăng? Phải nói rằng đây là một tiếng nói đầy kiêu hãnh về giới mình;
Dữ dội và dịu êm
… tận bể
Trong khí chất của sóng, thấy có sự hài hoà của các đối cực, vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhất vừa lặng lẽ nhất. Và mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn, và đó là khát vọng về sự lớn lao. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt. Vâng, nếu một khi xảy ra chuyện sông không hiểu nổi mình thì dứt khoát “Sóng tìm ra tận bể”. Sóng sẽ từ bỏ sư chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt.
Đứng trước biển, con người ta dễ có cảm giác rằng: nghìn năm trước khi chưa có mình biển vẫn thế này, nghìn năm sau khi mình đã tan biến khỏi mặt đất rồi, biển vẫn thế kia. Vẫn những con sóng từ ngoài xa mải miết chạy vào bờ, tan mình trên bờ bãi. Biển vẫn xôn xao, cồn cào, xáo động thế! Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với sự bất diệt có thực của biển người ta liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng! Chừng nào còn tuổi trẻ, chừng ấy khát vọng tình yêu vẫn bồi hồi vỗ sóng trong lồng ngực họ:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.
Đến khổ thơ thứ ba, sống lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu! Đứng trước biển, người phụ nữ ấy muốn cắt nghĩa vẽ nguồn gốc của sóng. Những nỗ lực ấy trở nên bất lực. Nguồn gốc của sóng cũng huyền bí như nguồn gốc của tình yêu:
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
“Khi nào ta yêu nhau?”, câu hỏi ấy dường như làm băn khoăn mọi đôi lứa. Và không ai trả lời được tới cùng? Càng yêu nhau say đắm bao nhiêu người ta càng thấy rằng tình duyên của mình là không thể giải thích được. Người ta thường thiêng liêng hoá tình yêu. Nó là sự gặp gỡ trong kiếp này, nhưng biết đâu lại là sự hò hẹn từ kiếp trước. Người ta chỉ muốn tin thế! Và phải tin thế tình yêu của con người mới trở nên linh thiêng!
Rồi cứ thế, sóng là nỗi nhớ của tình yêu: “Con sóng dưới lòng sâu – Con sóng trên mặt nước – ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ được – Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”, là lòng thuỷ chung: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam – Nơi nào em cũng nghĩ – hướng về anh một phương”. Là hành trình đến với hạnh phúc của những lứa đôi: “Ở ngoài kia đại dương – Trăm nghìn con sóng đó – Con nào chẳng tới bờ – Dù muôn vàn cách trở”. Là sự không cùng của khát vọng: ”Cuộc đời tuy dài thế – năm tháng vẫn đi qua – Như biển kia dẫu rộng – Mây vẫn bay về xa”… Cứ thế, lời thơ triền miên cùng với sóng. Để đến cuối cùng, nó hiện ra trong khao khát mãnh liệt nhất và cũng là khao khát vô biên tuyệt đích nhất: khao khát bất tử. Điều này là một lôgic hiển nhiên. Đứng trước biển, người ta đối diện với sự vô cùng vô tận của không gian, cũng là đối diện với sự vô thuỷ vô chung của thời gian và nhãn tiền là sự vô hạn vô hồi của biển cả. Người ta khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp. Thấy đời người thật là ngắn ngủi, kiếp người thật là nhỏ nhoi phù du, vô nghĩa. Chỉ có biển kia là vẫn thế. Chỉ có biển kia là bất diệt. Thân phận phù du nào cũng muốn hoá vĩnh hằng! Người ta thèm muốn được bất tử. Người phụ nữ này cũng thế. Chị muốn được có mặt mãi trên cõi đời này. Để được sống! Để được yêu! Sống trong tình yêu ấy là hạnh phúc. Thế là khát khao ấy đã dâng lên mãnh liệt khôn cùng:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Bài thơ dẫu đã khép lại, nhưng những con sóng đó vẫn cồn cào trong ngực biển, trong lồng ngực những lứa đôi không bao giờ ngừng nghỉ!
-/-
Các bạn vừa tham khảo một số bài văn hay phân tích hình tượng sóng trong thơ Xuân Quỳnh. Tham khảo thêm các bài văn mẫu lớp 12 khác tại doctailieu.com.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!