Phân tích khổ 3 bài Bếp lửa (11 mẫu) – Văn 9 – Download.vn
Khổ 3 bài thơ Bếp lửa là những hồi tưởng về quá khứ, những kỉ niệm bên bà trong suốt “tám năm ròng”. Với 11 bài Phân tích khổ 3 Bếp lửa dưới đây sẽ giúp các em hiểu sâu sắc hơn về tình bà cháu thiêng liêng, cao cả.
Mỗi khổ thơ trong bài Bếp lửa đều mang lại cho người đọc những ấn tượng riêng, khó phai nhòa. Giọng thơ ở khổ 3 chầm chậm, da diết, bộc lộ nỗi khắc khoải của niềm nhớ thương, không nguôi của tác giả. Mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Dàn ý phân tích khổ 3 Bếp lửa
1. Mở bài
- Giới thiệu chung về tác giả Bằng Việt.
- Giới thiệu về bài thơ Bếp lửa và khổ 3 bài thơ.
2. Thân bài
– Khơi nguồn nỗi nhớ:
- “Tám năm”: khoảng thời gian tuổi thơ sống bên bà
- “Tú hú kêu”: âm thanh gợi nhớ về những kí ức bên bà.
– Những kỉ niệm tuổi thơ cùng bà:
- Bà kể cháu nghe những câu chuyện ngày Huế.
- Bà thay cha mẹ chăm sóc, bảo ban cháu học hành.
- Bà dạy cho cháu từng con chữ, chỉ cho cháu từng việc làm nhỏ, cách đối nhân xử thế hàng ngày.
=> Kỉ niệm ngọt ngào về tình bà cháu.
– Tình cảm của cháu dành cho bà:
- “Thương bà khó nhọc”: thấu hiểu được những vất vả của bà, dành tình yêu thương của mình cho bà.
- Thương bà cô đơn tác giả buông lời trách nhẹ nhàng chim tu hú, sao cứ bay mãi trên cánh đồng xa, chẳng đến cùng cho bà đỡ buồn thương, hiu quạnh.
3. Kết bài
- Khẳng định giá trị của khổ thơ thứ ba nói riêng và bài thơ nói chung.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa – Mẫu 1
Những kỉ niệm hồi lên tám tuổi của cậu bé, là những năm tháng cậu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà. ”Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa”. Câu thơ gợi khoảng thời gian tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, bao bọc của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy tình yêu thương. Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự cưu mang đùm bọc đầy chi chút của bà. Đó còn là những năm tháng hồn nhiên, trong sáng và vô tư qua hình ảnh tâm tình với chim tu hú:
”Tu hú kêu trên những cánh đồng xa…..Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Tiếng tu hú – âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ hè về, để báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cành. Tiếng chim tu hú phải chăng còn là lời đồng vọng của đất trời với cảnh sống côi cút, khó nhọc của hai bà cháu. Tiếng chim tu hú như giục giã, như khắc khoải điều gì da diết lắm, khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Tiếng tu hú gợi nhớ, gợi thương: Về tám năm kháng chiến chống Pháp ”mẹ cùng cha công tác bận không về” bà vừa là cha, vừa là mẹ. Về những năm tháng tuổi thơ, về một thời cháu cùng bà nhóm lửa, được sống trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của bà:
” Cháu ở cùng bà, bà kể cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu học ”
Các động từ: ”bà bảo”, ”bà dạy”, ”bà chăm” đã diễn tả sâu sắc tấm lòng bao la, sự chăm chút, nâng niu của bà đối với đứa cháu nhỏ. Các từ ”bà” – ”cháu” được điệp lại bốn lần, đan xen vào nhau như gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương. Điều đó cho thấy bà vừa là bà, vừa là sự kết hợp cao quý của tình cha, nghĩa mẹ, ơn thầy.
Tình yêu, sự kính trọng bà của người cháu được thể hiện thật chân thành, sâu sắc qua câu thơ:
”Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
Cậu bé lớn lên từ bếp lửa của bà đến khi cậu biết nhóm bếp lửa cũng là lúc cậu trưởng thành, thấu hiểu những khó nhọc của cuộc đời bà. Hình ảnh con chim tu hú xuất hiện tiếp tục ở cuối khổ thơ với câu hỏi tu từ là 1 sáng tạo độc đáo của Bằng Việt nhằm diễn tả nỗi lòng da diết của mình khi nhớ về tuổi thơ, về bà:
”Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bàKêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Câu thơ gợi hình ảnh chú chim đang lạc lõng, bơ vơ, côi cút khao khát được ấp ủ, che chở. Hình ảnh nhân hóa với giọng điệu tâm tình, tác giả nói chuyện với chim tu hú như để vơi bớt nỗi lòng. Anh hỏi chim tu hú thực ra là hỏi lòng mình, anh lo bà sẽ buồn, cô đơn khi anh đi học xa. Hỏi chim tu hú thực cũng có nghĩa là anh nhớ hơi ấm tình bà. Tu hú ở với bà anh nhé, bà anh có 1 tấm lòng nhân hậu lắm! Đứa cháu được sống trong tình yêu thương, đùm bọc của bà đã chạnh lòng thương con tu hú. Và thương con tu hú bao nhiêu, tác giả lại biết ơn những ngày tháng được bà yêu thương, chăm chút bấy nhiêu. Khổ thơ là những hồi tưởng về quá khứ, đồng thời người cháu luôn thể hiện nỗi nhớ thương vô hạn và lòng biết ơn bà sâu nặng.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa – Mẫu 2
Mỗi người sinh ra ai cũng có cho mình những kỷ niệm về một thời tuổi thơ. Vui có buồn có, sướng vui có thì khó nhọc cũng có. Nhà thơ Bằng Việt cũng vậy, với riêng ông, cả một thời tuổi thơ là những gì cả cuộc đời sau đó ông đã không thể nào quên, những kỷ niệm bên người bà dấu yêu, và đó là lý do mà bài thơ Bếp lửa ra đời. ”Bếp lửa” không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người… “Bếp lửa” hay cùng chính là bà đang bên cháu, hình ảnh bà đang hiện về lung linh qua ánh lửa.
Ở một đất nước xa xôi, cô quạnh, bao nhiêu ký ức về người bà một đời khắc khổ nuôi ông lớn khôn hiện hữu về như mới ngày hôm qua:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa……..Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Giọng thơ thủ thỉ như kể một câu chuyện cổ tích. Đó là những năm tháng của cuộc sống gian khổ, cơ cực mà đứa cháu lớn lên trong sự che chở, đùm bọc, cưu mang của người bà. Tám năm. Tám năm kháng chiến. Tám năm khó khăn. Tám năm trời dài đằng đẵng với bao kỷ niệm buồn vui bên bà, bên bếp lửa.
Nếu trong hồi ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất là mùi khói thì ở đây, ấn tượng ấy là tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú vang lên vừa gợi lại trong tâm hồn tác giả bao kỉ niệm khó quên, vừa dấy lên nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bà, nhớ bếp lửa.
Tiếng chim tu hú gợi về những buổi mai, hai bà cháu cùng nhau nhóm lửa giữa không gian mênh mông, cô quạnh. Tiếng chim lúc mơ hồ, vang vọng từ “những cánh đồng xa”, lúc lại gần gũi, xót xa, nghe “sao mà tha thiết thế”. Tiếng chim tu hú như giục giã, khắc khoải điều gì da diết lắm khiến cho lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Tiếng chim tu hú chính là hình ảnh của quê hương, nơi đó có người bà dù khó nhọc nhưng giàu tình yêu thương con cháu.
Nhà thơ đang kể chợt quay sang trò chuyện với bà, tưởng như bà đang ngồi đối diện “bà còn nhớ không bà”. Bà có nhớ những câu chuyện bà vẫn thường kể, những câu chuyện cổ tích hằng đêm, dưới ánh trăng sáng, cháu ngồi trong lòng bà, đu đưa trên chiếc võng, vừa nghe bà kể vừa mân mê những sợi tóc bạc của bà hay những câu chuyện về các anh bộ đội cụ Hồ dũng cảm, xả thân vì nước, vì dân? Bà có nhớ những việc làm tận tụy đầy yêu thương của bà dành cho cháu, nhất là trong những buổi chiều hai bà cháu ngồi nhóm bếp? Làm sao cháu có thể quên được hồi ấy:
“Mẹ cùng cha công tác bận không vềCháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu họcNhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
Tình thương của bà là sự bảo ban, chăm sóc không khác gì công ơn sinh thành và nuôi dưỡng. Đối với tác giả, bà chính là mẹ, là cha, là người thầy dạy dỗ cháu nên người. Bà là người chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến việc học hành. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục để bảo vệ quê hương Việt Nam. Đối với cháu, bà và tình yêu thương sâu lắng của bà dành cho cháu sẽ luôn là một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm tựa của tâm hồn cháu mỗi khi cháu gặp thất bại, khó khăn.
Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn. Thương bà ở một mình dưới túp lều tranh xiêu vẹo, thương bà mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng luôn cầu mong đứa cháu được bình an. Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu hú:
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bàKêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Tác giả đang trách chim tu hú mãi bay xa ngoài các cánh đồng, không đến ở cùng với bà đỡ cô quạnh, đỡ buồn tủi hay tác giả đang trách sự vô tâm, bất lực của chính bản thân mình? Câu thơ như một lời than thở thật tự nhiên, cảm động vô cùng chân thật, thể hiện nỗi nhớ thương da diết người bà của đứa cháu. Thời gian cứ trôi qua, bà vẫn xa đằng đẵng…
Tiếng chim tu hú khép lại khổ thơ mà cứ như xoáy sâu vào tâm trí kẻ xa quê đang dáo dác kiếm tìm những kỉ niệm yêu thương… Âm điệu trong khổ thơ thật da diết, trầm buồn, phù hợp với tâm trạng của thi sĩ: nỗi nhớ quê, nhớ bà da diết, sâu đậm, day dứt…
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa – Mẫu 3
Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô.
Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà. Lớn lên từ những câu chuyện bà kể, từ những việc bà dạy cháu, từ những bài học của bà, mọi thứ như đang ở ngay trước mắt.
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửaTu hú kêu trên những cánh đồng xaKhi tu hú kêu bà còn nhớ không bàBà hay kể chuyện những ngày ở HuếTiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng “tu hú” lúc mơ màng, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:
“Mẹ cùng cha bận công tác không về……………Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người.
Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,… Thi sĩ bỗng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.
Qua đoạn thơ này ta thấy hiện lên một căn nhà quạnh quẽ giữa đồng, chỉ hẩm hút có một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì ốm yếu hom hem. Bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh cái bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa ở đây không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp, nương náu để hai bà cháu sinh sống.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa – Mẫu 4
Nhắc đến Bằng Việt, không ai là không nhắc đến Bếp lửa. Bếp lửa như một thứ gì đó âm ỉ nhưng không bao giờ tắt vì nó là tất cả những gì nhà thơ có của một thời tuổi thơ của mình. Bằng Việt sáng tác ra bài thơ Bếp lửa trong những tháng năm xa nhà, ở một đất nước xa xôi, nơi mà con người ta cảm thấy cô đơn và dễ hoài niệm. Ông đã có những kỷ niệm với biết bao nhiêu gian khổ cùng người bà yêu dấu của mình, những kỷ niệm đã đi cùng ông cho đến cả cuộc đời sau này.
Con người ta có xa nhà, có cô đơn mới chợt nhớ về những người thân thương, nơi mà những con người đó mang đến cho ta những kỷ niệm đáng giá. Và với Bằng Việt cũng vậy, những năm tháng chiến tranh đã cho ông có được những kỷ niệm khắc cốt ghi tâm với người bà, ông lớn lên từ những câu chuyện bà kể, những việc bà dạy và cả những bài học bà chỉ.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửaTu hú kêu trên những cánh đồng xaKhi tu hú kêu bà còn nhớ không bàBà hay kể những ngày ở HuếTiếng tu hú sao mà tha thiết thế!Mẹ cùng cha công tác bận không vềCháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu họcNhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bàKêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, réo rắc cuộn xoáy vào trong lòng của người con xa xứ. Âm thanh của tú hú kêu được tái hiện trong những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi thì từ cánh đồng xa vọng lại (Tu hú kêu trên những cánh đồng xa) gợi lên một không gian rộng lớn, mênh mông và vắng lặng; khi thì lại rộn lên khắc khoải, da diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm (Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà/ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế); khi thì lại gióng giả, kêu hoài đến khô khan, lạnh vắng trên những cánh đồng xa xôi, heo hút (Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa)… Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ âm của những dòng hoài niệm hồi tám tuổi, có tác dụng khắc họa không gian sống vắng lặng, heo hút, mênh mông; lại vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn trống trải đến da diết, rợn ngợp. Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thấm đẫm tình cảm yêu thương, đùm bọc cưu mang của người bà yêu quý. “Mẹ và cha công tác bận không về” và hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu học. Các động từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu.
Vì thế, bà trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quý của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến đi xa bận công tác của bố mẹ. Cho nên, người cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa – Mẫu 5
Mỗi chúng ta, ai mà chẳng lưu giữ trong tim mình những âm thanh, cảnh sắc quê nhà, những kỷ niệm cảm động, mái tóc bạc phơ, đôi mắt hiền từ của ông bà, người đã sinh ra cha mẹ ta? Bài thơ của Bằng Việt chẳng khác nào lời ru của mẹ, chuyện kể của bà…
Bằng Việt là nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Anh làm thơ từ thời là học sinh, sinh viên. Bài thơ “Bếp lửa” viết năm 1963, khi anh đang học đại học ở nước ngoài. Đây là bài thơ tiêu biểu nhất của anh – một hồn thơ tài hoa và nồng hậu nghĩa tình. Bài thơ có đoạn:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa…. Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Đoạn thơ đầy xúc động nhắc lại những kỉ niệm êm đềm, sâu sắc một thời gian khổ “tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. Ngọn lửa ấy được nhóm lên bằng bàn tay của hai bà cháu, vì cuộc sống cơm áo cực nhọc đời thường. Ngọn lửa ấy, bếp lửa ấy là của tình yêu thương “ấp iu nồng đượm” mà bà đã sưởi ấm tâm hồn đứa cháu ngây thơ từ những ngày xửa ngày xưa, khi cháu vừa “lên bốn tuổi”. Tiếng kêu tha thiết của chim tu hú trên những cánh đồng xa gợi nhớ gợi thương, làm nhà thơ bồi hồi sống lại những kỉ niệm sâu sắc thời thơ bé, bâng khuâng nhớ lại những chuyện kể của bà. “Tám năm ròng”… – một thời gian khổ đã qua, nhưng cháu làm sao quên được? Cháu hồi tưởng, cháu hỏi bà hay tự hỏi mình?
… Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bàBà hay kể chuyện những ngày ở HuếTiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Hình ảnh ngọn lửa và âm thanh tiếng kêu chim tu hú có một sức mạnh biểu cảm vang xa, tạo nên những liên tưởng nghĩa tình thấm thía.
Sáu câu thơ tiếp theo với những chi tiết cụ thể và cảm động, Bằng Việt đã vẽ lên hình ảnh của bà, người bà đáng kính đáng yêu, suốt những năm dài khó nhọc đã chăm sóc, dạy dỗ cháu nên người:
Mẹ cùng cha bận công tác không về,Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu học…
Câu thơ gồm hai vế tiểu đối cân xứng, nhịp thơ êm ái hài hòa. Từ “bà”, từ “cháu” được nhắc lại nhiều lần “Cháu ở cùng bà… bà bảo… bà dạy… bà chăm cháu học”, âm điệu quấn quýt như sự gắn bó giữa hai tâm hồn bà – cháu trong tình yêu thương. Cháu lớn khôn, trưởng thành trong đôi bàn tay nâng niu, trong tấm lòng yêu thương vô hạn của bà. Bà đã thức khuya dậy sớm “nhóm lửa” làm cho tâm hồn thơ bé của cháu sống trong cảnh xa mẹ cha trở nên ấm áp. Ngọn lửa mà bà đã nhóm lên từ “bếp lửa” ấy đã sưởi ấm và soi sáng cuộc đời đi lên phía trước của cháu.
Mang nặng công ơn của bà, trong đáy tâm hồn cháu – nhà thơ – hình ảnh của bà hiện lên, chẳng bao giờ mờ phai. Tiếng kêu của con chim tu hú với hình ảnh của bà kết hợp hài hòa, được diễn tả dưới hình thức nghệ thuật cảm thán và câu hỏi tu từ đã khắc sâu nỗi nhớ thương da diết, một nỗi bồn chồn trong tâm tưởng và kí ức:
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa.
Âm điệu của vần thơ nhẹ nhàng, tha thiết, sâu lắng gợi lên những rung cảm man mác, bâng khuâng. Tiếng chim tu hú như vọng vào năm tháng, bồi hồi…
Hình ảnh “Bếp lửa” gắn liền với mái nhà êm ấm, cũng như âm thanh của tiếng chim tu hú gắn liền với cánh đồng. Bằng Việt đã khéo lựa chọn hai hình ảnh ấy để nói lên lòng kính yêu, sự thương nhớ và biết ơn bà, với tình yêu quê hương. Bếp lửa và tiếng chim trở thành biểu tượng mang vẻ đẹp nhân văn của một tình quê nồng hậu, về kỷ niệm tuổi thơ ngọt ngào.
Mỗi chúng ta, ai mà chẳng lưu giữ trong tim mình những âm thanh, cảnh sắc quê nhà, những kỷ niệm cảm động, mái tóc bạc phơ, đôi mắt hiền từ của ông bà, người đã sinh ra cha mẹ ta? Bài thơ của Bằng Việt chẳng khác nào lời ru của mẹ, chuyện kể của bà… từ những năm tháng tuổi thơ vọng về. Những tình cảm đẹp ấy được diễn tả rất thơ…
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa – Mẫu 6
Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với giọng văn tự sự, trữ tình riêng biệt, ông đã có những tập thơ để lại dấu ấn trong lòng người đọc như Hương cây – Bếp lửa, Những gương mặt những khoảng trời, Đất sau mưa… Bài thơ “Bếp lửa”, trích từ tập thơ Hương cây – Bếp lửa, là một trong những sáng tác xuất sắc nhất của nhà thơ khi khắc họa lại những ký ức về người bà ở quê nhà trong những năm tháng tác giả xa quê hương. Bếp lửa là những kỷ niệm khó phai về hình ảnh người bà trong trí tưởng tượng của nhà thơ, mỗi khi nhắc đến bếp lửa, hình ảnh người bà tần tảo lại ùa về trong ký ức.
Thuở ấy, tuổi thơ của cháu gắn gắn liền với 8 năm kháng chiến chống Pháp đầy tủi cực.
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
Cháu cùng bà trải qua bao năm tháng, cùng bà sống bên cánh đồng quê hương, cùng bà nhen nhóm yêu thương mỗi ngày bên bếp lửa thân thuộc. “Tám năm”- khoảng thời gian đủ dài để cháu khắc cốt ghi tâm những lời bà dạy, những câu chuyện kể của bà về ngày ở Huế, về những kỉ niệm xưa. Tiếng tu hú vang vọng trong bài thơ như gọi quá khứ trở về, khơi dậy những câu chuyện xưa. Những vần thơ lúc này đây chứa chan những yêu thương, thấm đẫm nỗi niềm xúc động:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”
Có những khi “Giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi” trong khi mẹ và cha bận công tác xa, đứa cháu ngây thơ chỉ biết sống trong vòng tay cưu mang, đùm bọc của bà. “Bà bảo cháu nghe” từng câu chuyện quê hương, “bà dạy cháu làm” từng công việc trong nhà, “bà chăm cháu học” mỗi đêm trong làng vắng tiếng bom thù. Tất cả những nhỏ nhặt, tủn mủn trong cuộc sống đều đặt lên đôi vai của người bà tần tảo khiến bà phải kiên cường mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Có lẽ phải xa cha mẹ từ bé, sống bên bà bao năm mà tình cảm của cháu dành cho bà luôn lớn lao như thế. Cháu luôn trân trọng công dạy dỗ của bà, những ngày bà dạy cháu làm, bà ân cần chỉ cháu học. Cả những lần bà dặn cháu viết thư đừng kể ra những khó nhọc nơi quê nhà khiến ba mẹ phải để tâm lo lắng. Bà vẫn vậy, luôn lắng lo cho con cho cháu, dẫu có vất vả, có nhọc nhằn vẫn chẳng lời kêu than, trách oan. Hình ảnh tú hú vẫn kêu xa trên những cánh đồng, lại chẳng thế đến cùng bà phải chăng chính là hình ảnh của cháu lúc này, nỗi nhớ bà đã diết, tiếng gọi bà vọng về nhưng chẳng thể trở về bên bà, chỉ có thể gửi gắm nỗi nhớ qua từng lời thơ.
Hình ảnh bà bao giờ cũng ấm áp yêu thương và tình cảm hai bà cháu bao giờ cũng thắm thiết sâu nặng không dễ gì quên. Bằng lời thơ nhẹ nhàng, tâm tình, hình ảnh giàu giá trị biểu tượng cùng lối viết kết hợp giữa tự sự, trữ tình và biểu cảm, tác giả đã sáng tạo nên một bài thơ đầy xúc cảm. Đọc bài thơ, em mới thêm hiểu cảm giác của những người con xa quê mồng ngóng ngày sum họp, thêm trân trọng những khoảnh khắc lao động, sum vầy bên gia đình mình, thêm yêu quê hương, đất nước, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn mình qua bao khoảnh khắc thời gian.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa – Mẫu 7
Hai giờ sáng, đang mơ màng trong giấc ngủ với giấc mơ nhớ về Quảng Ninh yêu dấu thì bạn cùng phòng ngủ mê nói thành lời khiến tôi tỉnh dậy, không ngủ được nữa. Nằm suy nghĩ về giấc mơ của mình, tôi men theo kí ức nhớ về bà ngoại của tôi – người bà hằng đêm vẫn ru tôi ngủ đã mất cách đây chục năm. Tôi nhớ bà và trong chốc lát, đôi mắt ướt nhòe vì chỉ được gặp bà qua bức ảnh thờ. Cứ mơ hồ suy nghĩ, tôi nhận ra có người cũng yêu bà như mình, cũng có thể đồng cảm, đó chính là nhà thơ Bằng Việt. Trong tác phẩm “Bếp lửa”, tác giả Bằng Việt cũng đã viết dòng hoài niệm đẹp đẽ của người cháu về tuổi thơ sống bên bà:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửaTu hú kêu trên những cánh đồng xaKhi tu hú kêu, bà còn nhớ không bàBà hay kể chuyện những ngày ở HuếTiếng tu hú sao mà tha thiết thếMẹ cùng cha công tác bận không vềCháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu họcNhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,Tu hú ơi!Chẳng đến ở cùng bàKêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Với những ai yêu thích Bằng Việt thì khi nhắc đến ông, người ta sẽ nghĩ ngay đến những trang thơ có giọng điệu tâm tình, mượt mà, trong trẻo, tinh tế, vừa sâu lắng vừa mang tính triết luận, suy tư. Với sở trường khai thác sức biểu cảm của những kỉ niệm, kí ức và ước mơ tuổi trẻ, Bằng Việt đã thành công ở rất nhiều tác phẩm, ghi dấu ấn khó phai trên thi đàn Việt Nam và trong lòng bạn đọc. Bài thơ “Bếp lửa” là sáng tác đầu tay của ông đã thổi một nguồn sống mới, đánh thức những năm tháng tuổi thơ trong lòng hàng triệu độc giả. Khi du học ở Liên Xô, ông từng tâm sự rằng: “Những năm đầu theo học Luật tại đây tôi nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi sớm dậy đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai củ sắn cho cả nhà.” Và cứ thế, từng dòng “Bếp lửa” được cất lên. Đây là thi phẩm đầy xúc động gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà, với gia đình, với quê hương, đất nước.
Chỉ ngắn gọn với mười một câu thơ nhưng Bằng Việt đã khái quát được những kỉ niệm đẹp đẽ cháu ở bên bà khi bé. Đoạn thơ đầy xúc động nhắc lại những kỉ niệm êm đềm, sâu sắc một thời gian khổ “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. Tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm- một quãng thời gian không dài nhưng cũng chẳng ngắn đủ cho cháu cảm nhận được tình yêu thương của bà dành cho cháu. Một cuộc sống đầy ắp khó khăn, khổ cực nhưng đầy tình yêu thương từ bà. Bà biết không, đó chính là cuộc sống cháu mong muốn bởi cháu được ở với bà, chơi với bà, tâm sự với bà. Người bà vẫn cứ như vậy, vẫn cứ tần tảo, cứ trở đi trở lại trong văn học Việt Nam. Trong tác phẩm “Đò lèn”, nhà thơ Nguyễn Duy cũng miêu tả hình ảnh người bà lam lũ, vất vả, chịu thương chịu khó:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thếBà mò cua xúc tép ở Đồng QuanBà đi gánh chè xanh Ba TrạiQuán Cháo, Đồng Giao thập thững đêm hàn.”
Trong suốt quãng thời gian sống với bà, tu hú chính là nhân chứng chứng kiến những kỉ niệm của bà và cháu. Tiếng chim tu hú từ xa xăm vẳng lại có thể nghe thấy được, chứng tỏ âm thanh đó đã bay qua những không gian mênh mông, vắng lặng. Âm thanh ấy không làm cho cảnh vật vui lên mà càng gợi lên cảm giác vắng vẻ, quạnh hiu. Tác giả như tách khỏi dòng hồi tưởng, như đang trò chuyện cùng bà: Bà còn nhớ không bà? Bởi chỉ có hai bà cháu mới hiểu hết ý nghĩa của âm thanh ấy. Tiếng chim tu hú phải da diết, khắc khoải lắm, nên cháu khó quên và bồi hồi xúc động khi nhớ lại. Có lẽ khi tiếng chim tu hú từ xa vọng lại, hai bà cháu mới cảm nhận rõ rệt nhất sự thiếu vắng trong ngôi nhà của mình. Đứa trẻ nào không khao khát tiếng nói của cha, hơi ấm của mẹ? Người bà nào chẳng ước mong tuổi già có con cháu quây quần bên cạnh? Vì hoàn cảnh chiến đấu, bố mẹ công tác xa không về, bà nuôi cháu trong trống vắng, quạnh hiu. Nhà thơ Anh Thơ cũng từng đồng điệu với những cảm xúc ấy:
“Con đi dài thương nhớ Mười năm chưa về quê Tu hú ơi tu hú Kêu chi hoài vườn xanh?”
Nỗi lòng của chim tu hú “kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” đâu có khác gì với nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết, âm vang trong tim người đọc. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình thủ thỉ, chậm rãi đầy nhung nhớ đã đưa ta về với tuổi thơ sống bên bà và đầy ắp tình bà cháu của tác giả.
Khi kháng chiến bùng nổ, bố và mẹ đều không có ở bên, Bằng Việt đã vẽ lên hình ảnh của bà, người bà đáng kính, đáng yêu suốt những năm dài khó nhọc đã chăm sóc, dạy dỗ cháu nên người:
“Mẹ cùng cha công tác bận không vềCháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”
Câu thơ gồm hai vế tiểu đối cân xứng với nhịp thơ êm ái, hài hòa. “bà”, “cháu” được nhắc lại nhiều lần “Cháu ở cùng bà…bà bảo…bà dạy..bà chăm cháu học”, âm điệu quấn quýt như sự gắn bó giữa hai tâm hồn bà – cháu trong tình yêu thương. Cháu lớn khôn trong vòng tay yêu thương, chăm sóc, che chở của bà. Bà là người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Bà không chỉ là bà mà như một người bố, người mẹ, người bạn tri âm tri kỉ, là chỗ dựa vững chắc để cháu chia sẻ, tâm sự, để cháu tựa vào mỗi khi mệt mỏi. Một loạt các từ ngữ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” vừa diễn tả một cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút của bà dành cho cháu, vừa thể hiện lòng biết ơn của cháu với bà. Bà là chỗ dựa, bao bọc, chở che cho cháu suốt đời. Bà đã thức khuya dậy sớm “nhóm lửa” làm cho tâm hồn thơ bé của cháu sống trong cảnh xa mẹ cha trở nên ấm áp. Ngọn lửa mà bà đã nhóm lên từ “bếp lửa” ấy đã sưởi ấm và soi sáng cuộc đời đi lên phía trước của cháu. Không chỉ vậy, bà còn “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”. Bà kể những câu chuyện đó để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc.
Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên. Nguyễn Duy khi miêu tả về bà cũng đã viết:
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư- thựcgiữa bà tôi và tiên phật, thánh thầncái năm đói củ dong riềng luộc sượngcứ nghe thơm mùi huệ trắng hương thầm.”
Bằng Việt cũng như Nguyễn Duy đều tôn trọng, yêu quý người bà tần tảo, luôn hiếu thảo, ngoan ngoãn biết vâng lời bà. Tình yêu thương ấm áp, sâu lắng của bà cứ vấn vương trong tâm trí cháu cho đến tận bây giờ khi đã xa bà. Tình yêu và kính trọng bà của tác giả được thể hiện thật chân thành và sâu sắc: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc, chở che dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn bó với tiếng chim tu hú.
Mang nặng công ơn của bà, trong đáy lòng cháu – nhà thơ – hình ảnh của bà hiện lên chẳng bao giờ mờ phai. Tiếng kêu của con chim tu hú với hình ảnh của bà kết hợp hài hòa, được diễn tả dưới hình thức nghệ thuật cảm thán và câu hỏi tu từ đã khắc sâu nỗi nhớ thương da diết, nỗi bồn chồn trong tâm tưởng và kí ức:
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!“Tu hú ơi!Chẳng đến ở cùng bàKêu chi hoài trên những cánh đồng xa.”
Âm điệu của vần thơ nhẹ nhàng, tha thiết, sâu lắng, gợi lên những rung cảm man mác, bâng khuâng. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Phải chăng đó là tiếng đồng vọng của trời đất để an ủi, chia sẻ với cuộc đời lam lũ của bà? Hình ảnh chim tu hú có sự tương đồng với cảnh ngộ của cháu: xa người thân côi cút nhưng cháu cũng vẫn may mắn hơn tu hú bởi tu hú mãi đơn côi vì thiêu bà còn cháu có bà để chở che, đùm bọc. Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” mới thấm thía, xót xa làm sao!. Nó diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà. Những câu thơ giống như lời đối thoại tâm tình của và bà trò chuyện trong tâm tưởng. Tất cả như lời giãi bày, tâm sự của cháu dành cho bà. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến bài thơ như phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.
Bằng thể thơ tám chữ có giọng điệu phù hợp với cảm xúc và suy ngẫm cùng với những hình ảnh quen thuộc: hình ảnh bếp lửa, tiếng chim tu hú,…vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang khả năng liên tưởng và biện pháp tu từ đạt hiệu quả cao: liệt kê, câu cảm thán, câu hỏi tu từ, cảm xúc bộc lộ trực tiếp, ẩn dụ,… kết hợp biểu cảm, tự sự, tác giả Bằng Việt đã viết lên đoạn thơ thể hiện cảm xúc của cháu về những năm tháng tuổi thơ. Đồng thời, đoạn trích chứa đựng tư tưởng cao đẹp: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Gấp lại trang sách, ta không thể nào quên được hình ảnh người bà cùng tiếng chim tu hú và mùi khói buổi chiều quê. Đoạn trích của Bằng Việt chẳng khác nào lời ru của mẹ, chuyện kể của bà,..từ những năm tháng tuổi thơ vọng về. Những tình cảm ấy được diễn tả rất chân thực qua từng lời kể của nhà thơ. Và quay trở lại với mình, với tình cảm dành cho bà, tôi cũng sẽ chẳng thể nào quên được những ngày tháng chơi đùa bên bà dưới hiên nhà. Bà ơi! Bà mãi là người cháu yêu quý nhất, cháu sẽ mãi mãi không bao giờ quên bà. Chúng ta được sống trong một gia đình đầy đủ thì hãy tận hưởng và tận hiếu với ông bà, cha mẹ để sau này không hối tiếc, không hối hận vì những gì đã qua các bạn nhé.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa – Mẫu 8
Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Các tác phẩm của ông thường viết về những tình cảm tốt đẹp như tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước bằng những lời thơ trong trẻo, mượt mà, gợi nhớ, gợi thương. Bếp lửa là bài thơ cảm động viết về tình bà cháu. Tình cảm ấy được gợi lên qua những kỉ niệm tuổi thơ của người cháu khi sống cùng bà, khổ thơ thứ ba, tác giả đã tái hiện lại dòng kí ức đầy đẹp đẽ ấy.
Ở một đất nước xa xôi, tuy rộng lớn mà cô đơn, nỗi nhớ nhà như chực chờ dâng trào trong tâm khảm, kí ức tuổi thơ trở thành nguồn sống nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ:
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửaTu hú kêu trên những cánh đồng xaKhi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Giọng thơ thủ thỉ, kết hợp với lối kể tả vừa ngọt ngào vừa dạt dào xúc cảm, kỉ niệm đã qua lâu rồi mà ngỡ như mới ngày hôm qua. Tám năm cùng bà nhóm lửa, cùng bà chia sẻ những ngọt bùi, đắng cay, san sẻ niềm vui nhỏ bé và cả những khổ cực của hoàn cảnh. Cuộc sống gian khó, cơ cực là thế nhưng cháu vẫn lớn lên từng ngày trong sự yêu thương, cưu mang, đùm bọc của bà, mới đây thôi cháu vừa lên bốn mà nay đã lên tám trở thành một cậu bé con hiểu chuyện và thương bà. Tám năm kháng chiến cũng là tám năm đất nước khó khăn, cuộc sống hai bà cháu cũng vậy. Tuy khó khăn nhưng ấm áp vị yêu thương của tình bà cháu.
Nếu trong hồi ức khi lên bốn, tác giả nhớ về mùi khói với vị cay nồng nơi sống mũi thì năm lên tám là kí ức đẹp đẽ về thanh âm của tiếng chim tu hú “Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà”. Đó là những ngày hè đượm nắng, tiếng tu hú vang xa trên cánh đồng quê hương. Tiếng tu hú gọi hè về, gọi cả kí ức của một tuổi thơ ấm áp trong lòng tác giả “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. Nỗi nhớ quê hương, nhớ bà, nhớ bếp lửa thổn thức từng lời thơ.
Tác giả thấy lòng mình “tha thiết” khi nghe tiếng chim tu hú dậy bên lòng, lòng càng da diết hơn khi nhớ về người bà yêu thương, tần tảo một đời của mình. Ngược dòng thời gian, tác giả đắm mình trong những kí ức tuổi thơ, nhớ về bếp lửa, về bà, về tiếng chim tú hú. Trong dòng hồi tưởng ấy, tác giả đã nhớ về bà mà thủ thỉ tâm sự như có bà đang bên cạnh: “Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà”. Bà còn nhớ năm nào bên bếp lửa, bà kể cho cháu nghe những câu chuyện về Huế, về các anh bộ đội cụ Hồ thật thà, chịu khó mà đầy gan dạ, dũng cảm. Bà có còn nhớ những tháng ngày bà thay cha mẹ chăm sóc, bảo ban cháu, dạy cho cháu từng con chữ, chỉ cho cháu từng việc làm nhỏ hay cách đối nhân xử thế hàng ngày? Lời hỏi thân thương ấy cũng là lời khẳng định tình cảm người cháu dành cho bà, dù thời gian có trôi đi bao lâu nữa thì những hình ảnh, kí ức bên bà vẫn còn in mãi trong trái tim cháu, suốt một đời cháu sẽ mang theo trong hành trang lớn lên và trưởng thành của mình.
“Mẹ cùng cha công tác bận không vềCháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu họcNhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
Bà là người nuôi dưỡng, bảo ban cháu, bà chính là mẹ, là cha cũng là người thầy bên cháu trong những buổi học đầu tiên. Càng nghĩ về bà, tác giả càng không cầm lòng đọc, tiếng “thương bà” cất lên trong nỗi nhớ, bên hình ảnh bếp lửa gần gũi mà thân thương. Thương bà một đời khó nhọc, nuôi con, chăm cháu, bên mái nhà tranh xiêu vẹo, bà trở thành điểm tựa vững chắc để cháu được bình an, lớn lên và trưởng thành hơn mỗi ngày.
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bàKêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Thương bà cô đơn, hiu quạnh tác giả buông lời trách nhẹ nhàng chim tu hú, sao cứ bay mãi trên cánh đồng xa, chẳng đến cùng cho bà đỡ buồn thương, hiu quạnh. Phải chăng, trong lời trách móc ấy, tác giả còn tự trách chính bản thân mình lúc này đây chẳng thể về bên bà, cùng bà hỏi han, tâm sự. Vì cuộc sống, vì lí tưởng cháu đành xa bà, khoảng cách xa đằng đẵng, nỗi nhớ bà lại ngày một dài thêm.
Khổ thơ khép lại bằng một câu hỏi tu từ. Trong tâm trí của người cháu xa quê ấy có lẽ đang tìm về những kí ức yêu thương cho thỏa nỗi nhớ nhung bà. Giọng thơ chầm chậm, da diết, bộc lộ nỗi khắc khoải của niềm nhớ, niềm thương. Tự nhiên như thế, đoạn thơ đã gieo vào lòng người đọc bao nỗi niềm khó tả, bao nỗi nhớ của một khung trời tươi đẹp về một kí ức tuổi thơ có bà.
Đoạn văn phân tích khổ 3 bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt
Ngọn lửa, từ bao đời nay luôn là biểu tượng thiêng liêng của sự sống, đem lại ánh sáng, sự ấm áp cho con người và vạn vật. Đi vào thơ kháng chiến, ngọn lửa trở thành biểu tượng của sức mạnh ý chí và nghị lực, là biểu tượng rực cháy của niềm tin và hy vọng chiến thắng,… Nhiều nhà thơ đã rất thành công khi lấy cảm hứng từ hình ảnh ánh đèn, ngọn lửa,… Tiêu biểu là Bằng Việt với “Bếp lửa”. Trong bai thơ ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên hành trình dài rộng của cuộc đời. Ngọn lửa chính là sức sống,lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Bà nhóm lên tình yêu thương dành cho mọi người, cho cháu (ngọn lửa lòng bà ủ sẵn,ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…). Ngọn lửa bình dị mà mang ý nghĩa thiêng liêng kỳ diệu. Bếp lửa bà nhen không chỉ bằng nhiên liệu ở ngoài mà còn được nhen lên từ ngọn lửa trong bà: ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương, niềm tin. Bà là ng giữ ngọn lửa,truyền lửa của sự sống, của niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Bằng Việt đã sáng tạo hình ảnh ngọn lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng để thể hiện tình yêu thương, lòng biết ơn đối với người bà thân yêu của mình. Trong hình ảnh ngọn lửa ấy, người đọc còn cảm nhận rất rõ tình yêu gia đình, quê hương đất nước của nhà thơ.
Viết đoạn văn phân tích khổ 3 Bếp lửa
“Bếp lửa” là bài thơ hay, đặc sắc của tác giả Bằng Việt. Mỗi khổ thơ trong bài đều có những nội dung riêng có thể phân tích độc lập. Ở khổ thơ thứ ba, tác giả đã kể lại những kỉ niệm bên bà trong suốt “tám năm ròng”. Đây là một khoảng thời gian rất dài, thế nhưng hình ảnh cháu và bà ngồi bên nhau, bên cạnh bếp lửa vẫn còn vẹn nguyên trong tâm trí tác giả. Và đặc biệt, tiếng chim tu hú mỗi dịp hè về đã đánh thức những kỉ niệm trong lòng của Bằng Việt. Trong suốt những năm tháng đó, bố mẹ tác giả bận công tác nên ông đã ở cùng bà, được bà “kể chuyện những ngày ở Huế”, “bà bảo cháu nghe”, “bà dạy cháu làm”, “bà chăm cháu học”. Lời thơ chậm rãi, nhẹ nhàng như đang thủ thỉ, tâm tình với bạn đọc về một quãng thời gian đã trôi qua rất xa rồi. Sự kết hợp của phép điệp ngữ cùng một loạt các động từ cũng đã thể hiện rõ sự yêu thương, đùm bọc, che chở của bà dành cho cháu. Và người cháu cũng rất hiểu tấm lòng bà, biết ơn sự vất vả, khó nhọc mà bà phải trải qua để nuôi nấng cháu lên người. Càng nghĩ, âm thanh của tiếng chim tu hú càng vang vọng khiến tác giả ở phương xa cảm thấy nhớ nhà da diết. Tiếng chim như lời giục giã, vẫy gọi ông hãy mau trở về bên bà. Ông đã bật thốt lên rằng: “Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà/ Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?” Câu hỏi tu từ ở cuối khổ thơ đã cho ta thấy tâm tình của tác giả. Đó chính là nỗi lòng lo lắng cho người bà ở quê hương đã già yếu mà chẳng có người chăm sóc. Tiếng chim tu hú khép lại khổ thơ mang âm điệu trầm buồn, da diết như đang nói lên tiếng lòng của người con xa xứ đang nhớ về quê hương.
Đoạn văn quy nạp phân tích khổ 3 bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt
Bà không chỉ là người nhóm lửa, ngọn lửa của sự ấm no, yêu thương, trong lòng bà luôn ủ sẵn một ngọn lửa để sưởi ấm cho cháu trong mọi hoàn cảnh. Bà nhóm lên ngọn lửa xua tan cái đói, nhóm lên yêu thương ngọt bùi với xóm làng. Ngọn lửa của bà còn làm bùng cháy lên những điều tươi đẹp, hồn nhiên và trong sáng trong tâm hồn tuổi thơ của cháu. Trái tim và tình yêu thương của bà đã trở thành một ngọn lửa thiêng liêng bất diệt, ngọn lửa ấy dù trong hoàn cảnh nào vẫn luôn rực sáng, soi đường chỉ lối cho mỗi bước chân của cháu trên đường đời. Chính nhờ có ngọn lửa của bà mà dù cháu có đi đến bất cứ phương trời nào, dù có gặp bếp lửa trăm nhà và niềm vui trăm ngả thì vẫn luôn chỉ nhớ đến bếp lửa và ngọn lửa của bà. Tấm lòng của người bà cũng được thể hiện qua hình ảnh bếp lửa một cũng được thể hiện qua hình ảnh bếp lửa một cách xúc động và chân thực. Bà nhen lên bếp lửa cũng như nhen lên những yêu thương, quan tâm, chăm sóc và những kí ức đẹp trong tuổi thơ cháu. Bà không chỉ cho cháu ăn, chăm sóc cháu mà còn dạy cho cháu làm người. Ngọn lửa của bà là nguồn sống mạnh mẽ cho cháu tự tin, là điểm tựa vững chắc cho cháu bước đi trên đường đời
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!