Phân tích Một thời đại trong thi ca (6 Mẫu) – Văn 11 – Download.vn
Phân tích Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh gồm 6 mẫu kèm theo gợi ý cách viết mà Download.vn giới thiệu dưới đây sẽ là tư liệu cực kì hữu ích với các bạn học sinh lớp 11.
Phân tích bài Một thời đại trong thi ca làm rung động tâm hồn bao thế hệ người đọc bởi phương pháp luận khoa học, văn phong tài hoa, tinh tế, cách viết giàu hình ảnh. Qua đây đã giúp chúng ta thêm hiểu biết trân trọng và những sáng tạo của thơ Mới. Bên cạnh đó để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 11.
Dàn ý phân tích bài Một thời đại trong thi ca
Dàn ý số 1
I. Mở bài
- Giới thiệu về Hoài Thanh: Hoài Thanh là nhà phê bình, nghiên cứu văn học xuất sắc tài hoa. Ông được bạn học yêu thích và ngưỡng mộ ở lĩnh vực phê bình thơ.
- Giới thiệu về tác phẩm: Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn “Thi nhân Việt Nam” – một công trình xuất sắc trong sự nghiệp văn chương của Hoài Thanh đề cập đến nhiều vấn đề thơ Mới.
- Giới thiệu về đoạn trích: Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận với lập luận chặt chẽ khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, tác giả đã nêu rõ đặc trưng tinh thần của thơ Mới là cái tôi cá nhân và số phận đầy bi kịch của nó.
II. Thân bài
Phân tích theo bố cục 3 phần
1. Tác giả đưa ra tiêu chí xác định tinh thần cùng giá trị của thơ Cũ và Thơ mới: Là phải căn cứ vào cái đại thể và cái hay của mỗi thời.
– Mở đầu đoạn trích, tác giả nêu lên nguyên tắc chung của việc đánh giá thơ Mới là chỉ căn cứ vào cái Hay của đại thể mỗi thời.
– Theo tác giả cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ Mới là:
Thơ Cũ, thơ Mới đều có bài hay, bài dở.
* Các nhà thơ Mới không chỉ viết ra những câu thơ hoàn hoàn cách tân, hiện đại mà vẫn gợi lại những hình ảnh thân thuộc muôn thuở của thơ ca truyền thống như Xuân Diệu:
- Người giai nhân: bến đợi dưới cây
- Tình du khách: thuyền qua không.
* Trong khi đó thơ Cũ lại có những câu “nhí nhảnh và lả lơi”.
Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉAi thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?
– Theo Hoài Thanh thời đại nào cũng có những tác phẩm hay, tác phẩm dở.
Cái khó thứ hai giữa thơ Cũ và thơ Mới vẫn có sự giao thoa, ảnh hưởng:
* Cái hôm nay phôi thai từ cái hôm qua, trong cái mới vẫn có cái cũ rơi rớt lại.
=> Từ đây nhà nghiên cứu đưa ra nguyên tắc nhận diện:
– Không căn cứ vào cục bộ và cái dở của thơ mỗi thời.
– Phải căn cứ vào cái đại thể, cái hay của mỗi thời.
– Cách nhìn nhận của tác giả như vậy là khách quan khoa học và biện chứng.
2. Nêu ra đặc trưng tinh thần của thơ Mới.
Tinh thần thơ Cũ – chữ Ta
Tinh thần thơ Mới – chữ Tôi
– Theo Hoài Thanh điều cốt lõi mà thơ Mới mang đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ chính là chữ TÔI – ý thức về bản thân.
– Khi tìm tòi đặc điểm của thơ Mới, tác giả luôn phân tích cái Tôi trong nhiều mối quan hệ để làm nổi rõ bản chất của nó. Đặt cái Tôi trong quan hệ với cái Ta để tìm ra những chỗ giống và khác nhau.
3. Khác
a. Tác giả luận giải về nội dung và biểu hiện của chữ Ta và chữ Tôi trong thơ ca.
– Chữ “Tôi” chính là ý thức cá nhân
– Chữ “Ta” là ý thức cộng đồng.
→ Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại song song trong đời sống tinh thần của mỗi con người. Thời trước, cái Ta lấn át nên cái Tôi không có cơ hội để nảy nở, còn thời nay cái tôi trỗi dậy giành quyền sống tự do. Phong trào thơ Mới nảy sinh chính từ sự trỗi dậy mạnh mẽ đó.
– Chữ “Ta” và chữ “Tôi” trong thơ Cũ và thơ Mới có gì khác nhau:
- Chữ “Ta” trong thơ Cũ gắn liền với mối quan hệ gia đình, quốc gia, giống như giọt nước trong biển cả không có bản sắc riêng.
- Chữ “Tôi”: bản sắc riêng, quan niệm cá nhân.
→ Nhận xét lập luận:
Các bước lập luận theo trật tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể. Trật tự mạch lạc, bảo đảm tư duy logic, sức thuyết phục cao.
b. Tác giả đề cập đến sự phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó.
– Chữ “Tôi” với cái nghĩa tuyệt đối của nó lại “đáng thương” tội nghiệp bởi vì:
- Thi nhân mất hết cái cốt cách hiện ngay ngày trước.
- Cái Tôi đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh bơ vơ, muốn thoát nhưng không được: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, càng đi càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
– Âm điệu của câu văn lúc cân đối nhịp nhàng, lúc bất ngờ gấp gáp, lúc chùng xuống suy tư.
– Tác giả sử dụng rất nhiều tính từ, động từ chỉ trạng thái tâm lí giàu sức biểu cảm: rộng, sâu, lạnh.
– Phân tích sự tương phản giữa khát vọng thoát thân với thực tế tù túng, bi kịch thi sĩ lãng mạn:
- Thoát lên tiên – Động tiên đã khép
- Phong lưu trong trường tình – Tình yêu không bền
- Điên cuồng – Điên cuồng rồi tỉnh
- Đắm say – Say đắm bơ vơ
=> Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ, giải tỏa bi kịch đời mình vào tiếng Việt, dồn tình yêu quê hương trong tiếng Việt, lấy tinh thần nòi giống, tìm về dĩ vãng làm chỗ dựa tinh thần.
III. Kết bài
Bài tiểu luận hấp dẫn, lôi cuốn và làm rung động tâm hồn bao thế hệ người đọc bởi phương pháp luận khoa học, văn phong tài hoa, tinh tế, cách viết giàu hình ảnh, so sánh gợi liên tưởng Hoài Thanh đã giúp chúng ta thêm hiểu biết trân trọng và những sáng tạo của thơ Mới. Hoài Thanh xứng đáng là nhà phê bình xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Hoài Thanh
– Giới thiệu tác phẩm Một thời đại trong thi ca
2. Thân bài
a. Nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới.
* Khó khăn :
– Tác giả trích dẫn chứng của hai nhà thơ cũ và mới tiêu biểu rồi đi đến chỉ ra sự khó khăn trong việc xác định thơ mới và thơ cũ.
– Ranh giới giữa thơ mới thơ cũ không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ nhận ra: “…hôm nay phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”.
– Cả thơ mới và thơ cũ đều có những cái hay, cái dở: Khốn nỗi cái tầm thường cái lố lăng chẳng phải của riêng thời nào.
=> Bằng những câu văn giả định, với một giọng điệu thân mật, gần gũi, thiết tha, bức xúc mà chân thành, tác giả đã nêu lên được cái khó khăn trong việc xác định thơ mới mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.
* Nguyên tắc (phương pháp) :
- Căn cứ vào cái tiêu biểu: phải sánh bài hay với bài hay: vì chỉ có bài hay mới toát lên được tinh thần của thơ ca đích thực.
- Căn cứ vào cái “đại thể: phải nhìn vào đại thể để đánh giá khách quan, toàn diện, tránh cái nhìn vụn vặt, phiến diện
- Phải so sánh với thơ cũ để thấy được sự khác biệt, từ đó mới xác lập cái cốt lõi của tinh thần thơ mới.
=> Tác giả sử dụng nghệ thuật lập luận quy nạp, theo logic chặt chẽ (đưa ra dẫn chứng và giả định – đi đến kết luận thuyết phục).
=> Lập luận chặt chẽ, thể hiện cái nhìn biện chứng, khách quan, khoa học của tác giả về một vấn đề văn học mới mẻ và phức tạp
b. Tinh thần thơ mới:
– Nhận định táo bạo về thơ cũ và thơ mới:
- Thơ cũ chính là “cái ta” ( ngày trước là thời chữ ta)
- Thơ mới chính là “cái tôi” (bây giờ là thời chữ tôi)
– Tinh thần thơ mới : Chữ tôi. Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó.
Nhận xét:
- Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, gắn liền với đoàn thể, cộng đồng, dân tộc. Thơ mới là tiếng nói của cái Tôi với nghĩa tuyệt đối, gắn liền với cái riêng, cái cá nhân, cá thể.
- Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu được kết hợp chặt chẽ với cái nhìn biện chứng, lịch sử, nhiều chiều :
– Đặt cái tôi trong mối quan hệ đối chiếu với cái ta.
– Đặt cái tôi trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thanh niên đương thời để phân tích, đánh giá.
=> Chính vì đề cao giải phóng cái tôi nên thơ mới có sự xuất hiện của nhiều phong cách nghệ thuật riêng biệt, làm nên sự phong phú của cả nền thơ.
c. Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.
* Hành trình vận động của cái tôi thơ mới:
– Ban đầu: Nó thực bỡ ngỡ, như lạc loài nơi đất khách =>khó chịu, ác cảm
– Sau này: Nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá !=> quen dần và thương cảm.
=> Đặt cái tôi trong cái nhìn lịch sử để xem xét. Giọng điệu giàu cảm xúc.
* Bi kịch cái tôi thơ mới:
– Cái tôi đáng thương và đáng tội nghiệp vì :
- Mất cốt cách hiên ngang thưở trước: không có khí phách ngang tàng như Lí Bạch, không có lòng tự trọng khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ (Rên rỉ, khổ sở, thảm hại).
- Thiếu một lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách thoát li thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch: “càng đi sâu càng lạnh”.
=> Cách trình bày Có tính khái quát cao (về sự bế tắc của cái tôi thơ mới và phong cách riêng của từng nhà văn), lập luận logic, chặt chẽ nhưng cách diễn đạt lại giàu cảm xúc và có tính hình tượng.
– Nguyên nhân: Hoàn cảnh lịch sử:
- Bi kịch của người thanh niên thời ấy : Cô đơn, buồn chán, tìm cách thoát li thực tại vì thiếu lòng tin vào thực tại nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc. (Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của thơ mới). Đó là nỗi niềm của người thanh niên mất nước, không có điểm tựa, niềm tin trong cuộc đời.
- Mỗi nhà thơ lại có một phong cách nghệ thuật với cái tôi độc đáo, hấp dẫn.
(Tư liệu: “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhước Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoan như Xuân Diệu” ( Hoài Thanh)
* Con đường giải quyết bi kịch :
– Họ gửi cả vào tiếng Việt.
– Bởi vì :
- Tiếng Việt là văn hóa, tiếng nói của dân tộc Việt Nam: là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua.
- Họ tin vào các giá trị vĩnh hằng trong cội nguồn dân tộc: thể thơ, ngôn ngữ (vì họ cần tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai).
- Nhận xét: Các nhà thơ mới, thế hệ thanh niên thời ấy đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín. Tất cả tình yêu thương ấy được họ dồn cả vào tình yêu tiếng Việt. Bởi họ tin rằng : Truyện Kiều còn, tiếng ta còn ; tiếng ta còn, nước ta còn.
3. Kết bài
– Khái quát vấn đề
Phân tích bài Một thời đại trong thi ca – Mẫu 1
Một thời đại trong thi ca là một văn bản phê bình văn học. Bài viết thấm đượm phong cách khoa học và phong cách nghệ thuật. Phím hát khoa học trước hết ở những luận điểm mới mẻ, sâu sắc, phản ánh được bản chất sự vật, luận điểm 1 lại được lý giải một cách chặt chẽ, khúc chiết, có sức thuyết phục cao. Phim chất nghệ thuật được bộc lộ ở những cảm xúc thẩm mỹ tinh tế. Cảm xúc hóa thân thánh giọng điệu tác giả, thành hình ảnh diễn đạt, thành thứ ngôn ngữ vừa cảm xúc vừa hàm -súc, uyển chuyển, gợi cảm, bài viết đã nêu được quan niệm đúng đắn của tác giả về tinh thần thơ mới qua cách luận giải sắc sảo, diễn đạt tài hoa đầy sức thuyết phục.
Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca. Luận điểm bao trùm cả đoạn trích này là vấn đề “tinh thần thơ mới”. Đây là luận điểm đặc sắc và kết tinh nhiều tinh hoa văn phê bình của Hoài Thanh. Luận điểm được triển khai thành ba nội dung chính Bởi thứ nhất, ông nêu ra nguyên tắc chung cho việc định nghĩa của mình: Chỉ căn cứ vào “cái hay”, không căn cứ vào “cái đó” ; Chỉ căn cứ vào “đại thể”, không căn cứ vào “tiểu tiết”. Theo quan niệm của Hoài Thanh (cũng là nguyên tắc phổ biến khi xem xét một hiện tượng văn học), chi có “cái hay”, cái “đại thế mới đủ tư cách đại diện cho một thời đại thi ca. “cái dở”, cái “tân tiết” không đủ tư cách đại diện cho nghệ thuật và cho một thời đại lớn của nghệ thuật. Hoài Thanh nêu định nghĩa về tinh thần thơ mới bằng cách đối sánh: tinh thần thơ cũ gồm trong chữ “ta”; tinh thần thơ mới gồm trong chữ “tôi”. Nhà phê bình có đề cập đến chỗ giống nhau nhưng hướng trọng tâm vào chỗ khác nhau của hai chữ này. Bước thứ hai, tác giả luận giải về nội dung và biểu hiện của hai chữ “tôi” và “ta”; Chữ “ta” và biểu hiện của chữ “ta” cùng số phận của nó trong thời đại thơ cũ trước kia. Chữ “tôi” và biểu hiện của chữ “tôi” cùng số phận đầy bi kịch của nó trong thời đại thơ mới này.
Qua ba bước trên, người đọc nhận thấy nhà phê bình đã tuân theo trật tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể, từ diện mạo (trong không gian) đến diễn biến lịch sử (trong thời gian). Các bước lập luận với trật tự như vậy rất đảm bảo tính logic của tư duy. Vì vậy khả năng thuyết phục rất cao. Đây là một ưu thế của văn nghị luận.
Tinh thần thơ mới gói gọn trong một chữ “tôi”. “Cái tôi” của các nhà thấy mới của mọi con người mà ai cũng có. Nhưng trong những thời kì lịch sử nhất định (đặc biệt là thời trung đại) do hệ tư tưởng chính thống của thời đại khống chế, ép buộc nén cái bán ngã ấy không được bộc lộ, phái giấu kín hoặc triệt tiêu. Nhà thơ phải nói tiếng nói của “cái ta – đạo lí” chung của thời đại. Đó là một nền thơ phi ngã, vô ngã. Chỉ khi nào “cái tôi” ấy được giải phóng thì thi nhân mới có thể nói lên những điều thành thực tự đáy lòng mình. “Cái tôi” đó chính là”khát vọng được thành thực”, là sự khẳng định bản ngã của nhà thơ trước cuộc đời, là sự tự ý thức về cá nhân mình trong cuộc sống xã hội. “Cái tôi” ấy bị xã hội phong kiến kiềm chế trong bao nhiêu thế kĩ giờ đây trong bối cảnh mới của thời kì hiện đại, đặc biệt là những năm 30 của thế kỉ XX mới được giải phóng và bùng nổ mãnh liệt. Và khi được giải phóng thì nó sẽ “làm giàu cho thi ca” bằng những cảm xúc mới mẻ và những cách tân nghệ thuật.
Khi luận giải về tư tưởng thơ mới, Hoài Thanh đã dùng cách đối sánh giữa tư tưởng thơ cũ (gồm trong chữ “ta”) và tư tưởng thơ mới (gồm trong chữ “tôi”). Cách luận giải về nội dung và biểu hiện của hai chữ “ta” và “tôi” luôn song hành để nêu lên mặt tích cực của cái tôi trong thơ mới: “Cái tôi thơ mới xuất hiện diễn đàn có tính khái quát: “Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình.
“Cái tôi thơ mới xuất hiện mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này niệm cá nhân” tức là sự tự ý thức về bản thân chứ không phải chủ nghĩa cá nhân. Cái tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó làm cho mọi người khó chịu. Nhưng ngày càng mất dần vẻ bỡ ngỡ và được vô số người quen. Sự mới mẻ trong tính ưu việt của cái tôi – bản ngã được chấp nhận. Còn trong thơ xưa, các thi nhân không một lần dám dùng chữ “tôi” để nói chuyện với mình hay với tất cả mọi người. không tự xưng mà ẩn mình sau chữ “ta”.
Cách dẫn dắt của tác giả tự nhiên linh hoạt và độc đáo. Từ thực tế văn chương xưa nay mà thể hiện cái tôi trỗi – dậy đòi được khẳng định và phong trào Thơ mới nảy sinh từ sự trỗi dậy của “cái tôi” đó.
Khi nói về bi kịch của cái tôi, tác giả không dùng lí lẽ để diễn đạt. Mạch văn không phải được dẫn dắt bằng ngôn ngữ khái niệm với những phương tiện liên kết của logic hình thức. Trái lại, ông dẫn dắt ý chủ yếu bằng ngôn ngữ đời sống, nương theo mạch liên kết của cảm xúc thẩm mĩ. Bởi vậy mà tạo được sự rung cảm, đổng cảm ở người dọc. “Cái tôi” của các nhà thơ mới thật đáng thương (Người ta thấy nó đáng thương, Mà thật nó tội nghiệp quá!) vì nó mất đi chỗ dựa tư tưởng, bởi họ là những thi nhân mất nước đang sống trong cuộc đời mòn mỏi, tù túng. Nghệ thuật tương phản đối lập giữa con đường muốn thoát thân với cái sự thực hiện hữu của cuộc đời đã nêu bật được bi kịch của cái tôi thơ mới. Mỗi cái tôi là một nỗ lực đào sâu trốn chạy vài ý thức cá nhân nhưng càng đi sâu càng bế tắc. Đặc sắc của đoạn văn là những khái quát rất chính xác, súc tích, lại được viết bằng lối văn giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu khiến cho văn phê bình mà đọc lên nghe như thơ. Tác giả sử dụng dạng ngôn ngữ phi khái niệm, giản dị dễ hiểu mà vẫn súc tích, diễn đạt được bản chất của đối tượng. Độc đáo hơn nữa là tác giả tạo ra hình ảnh một độc giả yêu thơ cứ theo bước chân các nhà thơ tiêu biểu bước vào cõi thơ riêng của mỗi vị.
Chủ đề được triển khai thành hai phần chính: khái quát về hướng tìm tòi, hệ quả chung và điểm qua những gương mặt điển hình cùng lãnh địa cá nhân điển hình của thơ mới để thấy được sự phân hóa đa dạng cùng sự quẩn quanh bế tắc của ý thức cá nhân. Từ đó tác giả đi đến một nhân định: “Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam xôn xao như thê”. Đây là nỗi buồn của một thế hệ thi nhân mất nước mang “cái tôi” cô đơn nhỏ bé trước cách mạng. Điều đó đã làm nên âm hưởng, giọng điệu đặc trưng riêng của thơ mới.
Bi kịch của cái tôi thơ mới là bi kịch không dễ gì giải quyết được vì họ “thiếu một lòng tin đầy đủ”, thiếu một lý tưởng sống cho cuộc đời. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, các thi nhân chi biết giải quyết bi kịch ấy bằng cách “gửi cả vào tiếng Việt” bởi vì “tiếng Việt, họ nghĩ là tấm lụa hứng vong của những thế hệ qua”. Như vậy, các thi nhân thơ mới đã tìm thấy một chỗ dựa tin cậy của tư tưởng nòi giống, của các thể thơ xưa, của tiếng Việt, đế vin vào những điều bất diệt ấy mà đảm bảo cho ngày mai. Ba câu vần điệp lại một cấu trúc “chưa bao giờ như bây giờ” vừa nhấn mạnh ý vừa thể hiện giọng điệu thiết tha thông cảm khiến cho bài văn nghị luận không khô khan mà thấm đượm tình người – ở đây là tình của người phê bình với các thi nhân thơ mới.
Đoạn trích cũng như toàn bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca là một mẫu mực đẹp đẽ, một thành tựu xuất sắc của Hoài Thanh trong thể nghị luận văn chương thuộc lĩnh vực phê bình, văn học. Đoạn văn đã nêu bật được tư tưởng thơ mới, thể hiện được cách nhìn nhận thơ mới trong bối cảnh lịch sử và thực tiễn thơ ca một cách đúng đắn, khoa học. Đó cũng là cách nhìn tiến bộ với hình tượng thơ mới 1932- 1941 theo quan điểm lịch sử xuất phát từ chính con người và hồn thơ của các thi nhân lúc bấy giờ. Cách lí giải của Hoài Thanh đã hơn 60 năm trôi qua mà vẫn rất gần với cách hiểu của chúng ta về thơ mới.
Phân tích bài Một thời đại trong thi ca – Mẫu 2
Nội dung của cuốn sách này đề cập đến rất nhiều vấn đề như nguồn gốc của thơ mới, cuộc tranh luận, so sánh giữa thơ mới- thơ cũ, vài nét về con đường phát triển Thơ mới, đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới; tinh thần cốt lõi của Thơ mới và hình ảnh cái tôi trong mỗi tác phẩm. Ở mỗi góc cạnh của vấn đề, tác giả lại có những nhận định với những khía cạnh rất riêng kèm theo những ý kiến sắc sảo và tinh tế.
Mở đầu cho đoạn trích thì tác giả đưa ra để xác định cho thơ mới, và theo như Hoài Thanh thì muốn hiểu được thời đại thi ca thì phải có sự so sánh. Cách xác định của tác giả luôn mang tính khoa học bởi vì chỉ những câu hay mới được trở thành thước đo để tính giá trị sản phẩm mà thôi. Thứ hai, căn cứ vào tổng thể chứ không thể nhìn vào tiểu tiết. Nghĩa là phải dựa vào cái chung nhất.
Tinh thần thơ mới là sự khẳng định của cái “tôi”. Để khẳng định được tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ “ tôi”trong quá trình phân biệt chữ “tôi” với “ta”. Nét chung của thơ cũ là thiên về cái “ta”, thiên về ý thức cộng đồng và để làm rõ ý thức này, Hoài Thanh đã nhìn trong lối sống nói chung và nhìn trong văn học nói riêng. ” Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Như vậy nhìn qua tất cả thì thơ cũ gồm cả chữ” ta”, họ cầu cứu đoàn thể để chống lại sự cô đơn.
Thơ mới lại nghiêng về “cái tôi” và “ý thức cá nhân, “dựa trên đại thể tất cả tinh thần thời nay hay tinh thần của thơ mới gồm hai trong chữ “tôi”- ý thức cá nhân của mỗi người” và khi thơ mới xuất hiện nó mang một quan niệm chưa từng thấy ở xứ sở này “ đó là quan niệm cá nhân”.
Thứ ba là biểu hiện và ý nghĩa của cái tôi. Đầu tiên là sự xuất hiện và tiếp nhận của cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm thì còn có rất nhiều sự bỡ ngỡ. Nó giống như một kẻ lạc loài ở nơi đất khách bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Vì chúng ta đã quen nhìn cuộc sống trong mình có cái “ta”. Bây giờ, nó xuất hiện thì làm sao lại tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Nhưng theo thời gian, chữ “tôi” đó dần dần được chấp nhận và đã làm cho nó đã mất dần đi vẻ bỡ ngỡ của ban đầu.
Cuối cùng tác giả đã chỉ ra một hướng lớn trong phong trào thơ mới. Đi sâu vào cái “tôi”:” đời của chúng ta nằm trong vòng cái “tôi”, mất bề rộng ta lại đi tìm bề sâu”. “mất bề rộng” là không còn thiên về cái chung, cái cộng đồng của thơ cũ, còn đi tìm bề sâu chính là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Tâm hồn của các nhà thơ thu mình trong chữ “tôi” nên luôn cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo cho nên thường gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu là một nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy vậy mà chỉ nói tới cái cô đơn, khổ sở, thảm hại của cái ta trong những vần thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát: “ chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế”.
Cách dẫn dắt và lập luận của tác giả càng trở nên chặt chẽ hơn khi đưa ra các ví dụ cụ thể, so sánh liên tưởng và nhất là dẫn ra những câu chuyện về Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính chất đòn bẩy để xác định nỗi thương không nơi nương tựa của những nhà thơ mới. Thế đấy, nỗi buồn của thơ mới được hiện lên như một bi kịch diễn ra ngấm ngầm.
Bài tiểu luận có tính chặt chẽ, lập luận rất khoa học, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo, vừa rất tinh tế với giọng văn của người trong cuộc cùng những chia sẻ đúng như quan niệm thi nhân “ lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Đặc biệt những khái niệm đó vốn khô khan, qua những trình bày, giải thích của tác giả đã được chuyển thành những hình ảnh biểu cảm. Các câu văn được cân chỉnh, hợp lí với giọng văn cuốn hút người đọc. Chính điều này đã mang được tính nhạc cho bài văn. Cách dẫn dắt đoạn văn thật hợp lí, logic, ngôn ngữ đặc sắc, giản dị dễ hiểu mà vẫn súc tích là một trong những điều mà hiếm có bài phê bình nào có thể làm được. Đoạn trích đã đi sâu tập trung giải thích cho sự ra đời và phát triển của thơ mới. Qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn thấy thái độ trân trọng cổ vũ của tác giả, cho thấy sự xuất hiện ý thức cá nhân trong thơ ca và tấm lòng của nhà thơ mới đối với toàn dân tộc ta.
Phân tích Một thời đại trong thi ca – Mẫu 3
Hoài Thanh là một nhà phê bình được đánh giá là một nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học xuất sắc nhất. Cuốn sách nổi tiếng “một thời đại trong thi ca” là tiểu luận mở đầu cho cuốn Thi nhân Việt Nam. Đó cũng chính là một trong những công trình xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của tác giả. Và cũng dễ nhận thấy được nội dung của cuốn sách này đề cập đến rất nhiều vấn đề như nguồn gốc của thơ mới, cuộc tranh luận và có cả những sự so sánh giữa thơ mới- thơ cũ. Trong tác phẩm đó cũng chính là một vài nét về con đường phát triển Thơ mới, đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới. Ta có thể nhận thấy được đó chính là cái tinh thần cốt lõi của Thơ mới và hình ảnh cái tôi trong mỗi tác phẩm. Và ở mỗi góc cạnh của vấn đề, tác giả lại có những nhận định với những khía cạnh rất riêng kèm theo những ý kiến sắc sảo và tinh tế biết bao nhiêu.
Và ấn tượng với đoạn mở đầu cho đoạn trích thì tác giả đưa ra để xác định cho thơ mới. Ta như thấy được theo như Hoài Thanh thì muốn hiểu được thời đại thi ca thì phải có sự so sánh. Và cái sự so sánh này dường như cũng đã chỉ ra các cách xác định của tác giả luôn mang tính khoa học bởi vì chỉ những câu hay mới được trở thành thước đo để tính giá trị sản phẩm mà thôi. Điều thứ hai đáng nói ở đây có lẽ chính là phải như căn cứ vào tổng thể chứ không thể nhìn vào tiểu tiết. Nghĩa là phải dựa vào cái chung nhất sau đó mới có thể nói những cái riêng biệt và đơn lẻ ra để có thể tổng hợp và đánh giá sao cho chân thực nhất.
Và một điều đáng nói ở đây có lẽ chính là tinh thần thơ mới là sự khẳng định của cái “tôi”. Cũng như là để khẳng định được tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ “ tôi”trong quá trình phân biệt chữ “tôi” với “ta”. Ta như có thể thấy được chính những nét chung của thơ cũ là thiên về cái “ta”, thiên về ý thức cộng đồng và để làm rõ ý thức này. Đặc biệt hơn nữa là chính Hoài Thanh đã nhìn trong lối sống nói chung và nhìn trong văn học nói riêng”. Ta như thấy được chính xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia nhỏ thì gia đình. Và khi nói về cá nhân thì dường như chính cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Như vậy, khi mà nhìn qua tất cả thì thơ cũ gồm cả chữ” ta”, họ cầu cứu đoàn thể để chống lại sự cô đơn như thật lạc long biết bao nhiêu.
Thơ mới dường như cũng đã như lại nghiêng về “cái tôi” và “ý thức cá nhân ,“dựa trên đại thể tất cả tinh thần thời nay hay chính là một tinh thần của thơ mới gồm hai trong chữ “tôi”- ý thức cá nhân của mỗi người” và có thể khẳng định rằng khi thơ mới xuất hiện nó mang một quan niệm chưa từng thấy ở xứ sở này “ đó là quan niệm cá nhân”.
Thứ ba đáng nói ở đây cũng chính là biểu hiện và ý nghĩa của cái tôi. Đầu tiên có thể nói đến chính là sự xuất hiện và tiếp nhận của cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm thì còn có rất nhiều sự bỡ ngỡ. Nó dường như thật là giống như một kẻ lạc loài ở nơi đất khách bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu biết bao nhiêu. Cũng chính vì chúng ta đã quen nhìn cuộc sống trong mình có cái “ta”. Bây giờ, chính cái “tôi” nó như lại xuất hiện thì làm sao lại tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Nhưng có thể nói cái “tôi” theo thời gian, chữ “tôi” đó dần dần được chấp nhận và đã làm cho nó đã mất dần đi vẻ bỡ ngỡ của ban đầu.
Cuối cùng ta cũng như đã thấy được chính tác giả đã chỉ ra một hướng lớn trong phong trào thơ mới. Đi sâu vào cái “tôi” kia thì dường như đời của chúng ta nằm trong vòng cái “tôi”, mất bề rộng ta lại đi tìm bề sâu”. “mất bề rộng” là không còn thiên về cái chung một sợi dây liên hệ như trước nữa. Và đó chính là cái cộng đồng của thơ cũ, còn đi tìm bề sâu chính là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Ta có thể thấy được có lẽ chính tâm hồn của các nhà thơ thu mình trong chữ “tôi” nên luôn cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo cho nên thường gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu quả đúng là một nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy vậy mà chỉ nói tới cái cô đơn, khổ sở, thảm hại của cái ta trong những vần thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát rất hay là“ chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế”.
Có thể thấy được chính cách dẫn dắt và lập luận của tác giả càng trở nên chặt chẽ hơn khi đưa ra các ví dụ cụ thể, cùng với sự so sánh liên tưởng và nhất là dẫn ra những câu chuyện về Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính chất như để làm đòn bẩy để xác định nỗi thương không nơi nương tựa của những nhà thơ mới. Thế đấy, ta như thấy được những nỗi buồn của thơ mới được hiện lên như một bi kịch diễn ra ngấm ngầm như âm ỉ nhưng không lúc nào thôi mạnh mẽ cả.
Quả thực chính bài tiểu luận có tính chặt chẽ, lập luận rất khoa học, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo, vừa rất tinh tế với giọng văn của người trong cuộc. Và như cùng những chia sẻ đúng như quan niệm thi nhân như đã “ lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Đặc biệt hơn nữa ta có thể thấy ở đây đó chính là những khái niệm đó vốn khô khan, qua những trình bày, giải thích của tác giả đã được chuyển thành những hình ảnh biểu cảm. Các câu văn dường như cũng đã được cân chỉnh, hợp lí với giọng văn cuốn hút người đọc. Có lẽ vì chính điều này đã mang được tính nhạc cho bài văn. Cách dẫn dắt đoạn văn của Hoài Thanh ta như thất được thật hợp lí, logic ,ngôn ngữ đặc sắc, dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích là một trong những điều mà hiếm có bài phê bình nào có thể làm được.
Đoạn trích dường như đã đi sâu cũng như thật tập trung giải thích cho sự ra đời và phát triển của thơ mới. Qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn thấy thái độ trân trọng cổ vũ của tác giả, đồng thời cũng đã như cho thấy sự xuất hiện ý thức cá nhân trong thơ ca và tấm lòng của nhà thơ mới đối với toàn dân tộc ta vậy.
Phân tích Một thời đại trong thi ca – Mẫu 4
Hoài Thanh được đánh giá là một nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học xuất sắc nhất. Cuốn sách “một thời đại trong thi ca” là tiểu luận mở đầu cho cuốn Thi nhân Việt Nam,là một trong những công trình xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của tác giả. Nội dung của cuốn sách này đề cập đến rất nhiều vấn đề như nguồn gốc của thơ mới, cuộc tranh luận,so sánh giữa thơ mới- thơ cũ, vài nét về con đường phát triển Thơ mới, đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới; tinh thần cốt lõi của Thơ mới và hình ảnh cái tôi trong mỗi tác phẩm. Ở mỗi góc cạnh của vấn đề, tác giả lại có những nhận định với những khía cạnh rất riêng kèm theo những ý kiến sắc sảo và tinh tế.
Mở đầu cho đoạn trích thì tác giả đưa ra để xác định cho thơ mới, và theo như Hoài Thanh thì muốn hiểu được thời đại thi ca thì phải có sự so sánh. Cách xác định của tác giả luôn mang tính khoa học bởi vì chỉ những câu hay mới được trở thành thước đo để tính giá trị sản phẩm mà thôi. Thứ hai, căn cứ vào tổng thể chứ không thể nhìn vào tiểu tiết. Nghĩa là phải dựa vào cái chung nhất.
Tinh thần thơ mới là sự khẳng định của cái “tôi”. Để khẳng định được tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ “ tôi”trong quá trình phân biệt chữ “tôi” với “ta”. Nét chung của thơ cũ là thiên về cái “ta”, thiên về ý thức cộng đồng và để làm rõ ý thức này, Hoài Thanh đã nhìn trong lối sống nói chung và nhìn trong văn học nói riêng. ” Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Như vậy nhìn qua tất cả thì thơ cũ gồm cả chữ” ta”, họ cầu cứu đoàn thể để chống lại sự cô đơn.
Thơ mới lại nghiêng về “cái tôi” và “ý thức cá nhân,“dựa trên đại thể tất cả tinh thần thời nay hay tinh thần của thơ mới gồm hai trong chữ “tôi”- ý thức cá nhân của mỗi người” và khi thơ mới xuất hiện nó mang một quan niệm chưa từng thấy ở xứ sở này “ đó là quan niệm cá nhân”.
Thứ ba là biểu hiện và ý nghĩa của cái tôi. Đầu tiên là sự xuất hiện và tiếp nhận của cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm thì còn có rất nhiều sự bỡ ngỡ. Nó giống như một kẻ lạc loài ở nơi đất khách bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Vì chúng ta đã quen nhìn cuộc sống trong mình có cái “ta”. Bây giờ, nó xuất hiện thì làm sao lại tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Nhưng theo thời gian, chữ “tôi” đó dần dần được chấp nhận và đã làm cho nó đã mất dần đi vẻ bỡ ngỡ của ban đầu.
Cuối cùng tác giả đã chỉ ra một hướng lớn trong phong trào thơ mới. Đi sâu vào cái “tôi”:” đời của chúng ta nằm trong vòng cái “tôi”, mất bề rộng ta lại đi tìm bề sâu”. “mất bề rộng” là không còn thiên về cái chung, cái cộng đồng của thơ cũ, còn đi tìm bề sâu chính là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Tâm hồn của các nhà thơ thu mình trong chữ “tôi” nên luôn cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo cho nên thường gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu là một nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy vậy mà chỉ nói tới cái cô đơn, khổ sở, thảm hại của cái ta trong những vần thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát: “ chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế”. Cách dẫn dắt và lập luận của tác giả càng trở nên chặt chẽ hơn khi đưa ra các ví dụ cụ thể, so sánh liên tưởng và nhất là dẫn ra những câu chuyện về Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính chất đòn bẩy để xác định nỗi thương không nơi nương tựa của những nhà thơ mới. Thế đấy, nỗi buồn của thơ mới được hiện lên như một bi kịch diễn ra ngấm ngầm.
Bài tiểu luận có tính chặt chẽ, lập luận rất khoa học, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo, vừa rất tinh tế với giọng văn của người trong cuộc cùng những chia sẻ đúng như quan niệm thi nhân “ lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Đặc biệt những khái niệm đó vốn khô khan, qua những trình bày, giải thích của tác giả đã được chuyển thành những hình ảnh biểu cảm. Các câu văn được cân chỉnh, hợp lí với giọng văn cuốn hút người đọc. Chính điều này đã mang được tính nhạc cho bài văn. Cách dẫn dắt đoạn văn thật hợp lí, logic,ngôn ngữ đặc sắc, dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích là một trong những điều mà hiếm có bài phê bình nào có thể làm được.
Đoạn trích đã đi sâu tập trung giải thích cho sự ra đời và phát triển của thơ mới. Qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn thấy thái độ trân trọng cổ vũ của tác giả,cho thấy sự xuất hiện ý thức cá nhân trong thơ ca và tấm lòng của nhà thơ mới đối với toàn dân tộc ta.
Phân tích Một thời đại trong thơ ca – Mẫu 5
Hoài Thanh sinh năm 1909 mất năm 1982 tên thật là Nguyễn Đức Nguyên, xuất than trong một gia đình nhà nho nghèo tại tỉnh Nghệ An. Ông bắt đầu viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX, khi mới ngoài hai mươi tuổi. Với những cống hiến hết mình, không mệt mỏi, ông được đánh giá là nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học xuất sắc nhất. Năm 2000, ông đã được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ chí Minh về văn học nghệ thuật. Cuốn sách “một thời đại trong thi ca” là tiểu luận mở đầu cho cuốn Thi nhân Việt Nam- một trong những công trình xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của tác giả Hoài Thanh.
Nội dung của cuốn sách này đề cập đến rất nhiều vấn đề như nguồn gốc của thơ mới, cuộc tranh luận và so sánh giữa thơ mới- thơ cũ, vài nét về con đường phát triển Thơ mới, đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới; tinh thần cốt lõi của Thơ mới và hình ảnh cái tôi trong mỗi tác phẩm. Ở mỗi vấn đề, tác giả lại có những nhận định với những khía cạnh rất riêng với những ý kiến sắc sảo và tinh tế.
Mở đầu đoạn trích Hoài Thanh đưa ra để xác định Thơ mới. theo Hoài Thanh muốn hiểu được thời đại thi ca, muốn hiểu tinh thần thơ ca phải so sánh bài hay nhau. Cách xác định của tác giả mang tính khoa học bởi lẽ chỉ những câu hay mới trở thành thước đo để tính giá trị sản phẩm mà thôi. Thứ hai, căn cứ vào đại thể chứ không nhìn vào tiểu tiết. Nghĩa là phải căn cứ vào cái chung nhất. Bởi các thời đại luôn có sự nối tiếp nhau ” hôm nay đã được phơi khai từ hôm qua trong cái mới vẫn còn rơi rớt từ cái cũ.
Tinh thần thơ mới là sự khẳng định của cái “tôi”. Để khẳng định tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ ” tôi”trong việc phân biệt chữ “tôi” với “ta”. Đặc điểm chung của thơ cũ là nghiêng về cái “ta”, nghiêng về ý thức cộng đồng. để làm rõ ý thức này, Hoài Thanh đã nhìn trong lối sống nói chung và nhìn trong văn học nói riêng. ” Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. như vậy nhìn đại thể thì thơ cũ gồm cả chữ” ta”, họ cầu cứu đoàn thể để chống lại cô đơn.
Nhưng thơ mới lại nghiêng về “cái tôi”- ý thức cá nhân “dựa trên đại thể tất cả tinh thần thời nay hay tinh thần của thơ mới gồm hai trong chữ “tôi”- ý thức cá nhân của mỗi người” và khi thơ mới xuất hiện nó mang một quan niệm chưa từng thấy ở xứ sở này ” đó là quan niệm cá nhân”.
Chẳng phải nội dung xuất phát từ ý thức cá nhân mà muốn được thể hiện khát vọng tận hưởng hạnh phúc ngay giữa trần gian, ngay trong hiện tại đó sao? Và cũng xuất phát từ những ý thức cá nhân mà Xuân Diệu đã thể hiện một quan niệm sống mới mẻ, táo bạo. Chạy đua với thời gian để mỗi phút, mỗi giây trong cuộc đời đều có ý nghĩa. Điều đó đã được thể hiện rõ nét qua bài thơ “vội vàng”.
Thứ ba là biểu hiện và ý nghĩa của cái tôi. Đầu tiên là sự xuất hiện và tiếp nhận cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm còn có rất nhiều bỡ ngỡ. nó giống như một kẻ lạc loài nơi đất khách bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. vì ta đã quen nhìn cuộc sống trong nhìn mình có cái “ta”. Bây giờ, nó xuất hiện sao tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Nhưng theo thời gian, chữ “tôi” dần dần được chấp nhận và làm cho nó đã mất dần đi vẻ bỡ ngỡ ban đầu.
Cuối cùng tác giả đã chỉ ra một hướng lớn trong thơ mới. Đào sâu vào cái “tôi”:” đời chúng ta nằm trong vòng cái “tôi”, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu”. “mất bề rộng” là không còn nghiêng về cái chung, cái cộng đồng của thơ cũ, còn đi tìm bề sâu nghĩa là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Nhưng càng đi sâu thì càng lạnh. Đó chính là bi kịch của thời đại thơ mới. Tâm hồn của các thi nhân thu mình trong chữ “tôi” nên dễ cảm thấy cô đơn, vắng lạnh nên thường gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy vậy mà chỉ nói tới cái cô đơn, khổ sở, thảm hại của cái ta trong những vần thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát: ” chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế.
Cách dẫn dắt, cách lập luận của tác giả càng trở nên chặt chẽ hơn khi đưa ra các ví dụ cụ thể, so sánh liên tưởng và nhất là dẫn ra những câu chuyện của Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính chất đòn bẩy để xác định nỗi thương không nơi nương tựa của những nhà thơ mới. thế đấy, nỗi buồn của thơ mới được biểu hiện như một bi kịch diễn ra ngấm ngầm. những chính trong nỗi buồn, trong sự cô đơn kia lại mang tới cho người đọc rất nhiều ý nghĩa và những phong cách thơ riêng biệt của từng người.
Bài tiểu luận có tính chặt chẽ, lập luận khoa học, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo, vừa tinh tế với giọng văn của người trong cuộc cùng những chia sẻ đúng như quan niệm của Hoài Thanh ” lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Đặc biệt những khái niệm vốn khô khan, qua những trình bày, giải thích của tác giả đã được chuyển thành những hình ảnh có thể hiểu được.
Các câu văn được cân chỉnh, hợp lí với giọng văn nhẹ nhàng, lôi cuốn người đọc. Chính điều này đã mang tính nhạc cho bài văn. Cách dẫn dắt đoạn văn hợp lí, logic ngôn ngữ đặc sắc, dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích là một trong những điều mà hiếm bài phê bình nào có thể làm được. Đoạn trích đi sâu tập trung giải thích cho sự ra đời và phát triển của thơ mới. qua đó, ta cũng có thể nhìn thấy thái độ trân trọng cổ vũ của tác giả cho sự xuất hiện ý thức cá nhân trong thơ ca và tấm long của nhà thơ mới đối với toàn dân tộc.
Phân tích Một thời đại trong thi ca – Mẫu 6
Mở những trang đầu của tuyển tập Thi nhân Việt Nam (1932 – 1941), người đọc được thưởng thức một bài tiểu luận xuất sắc của Hoài Thanh về phong trào thơ mới. Đây là bản tổng kết một sự kiện văn học lớn, được xem là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực thơ ca ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Một bản tổng kết có giá trị khoa học, đồng thời cũng là một áng văn phê bình bất hủ.
Bài tiểu luận không đầy bốn mươi trang in nhưng đã nói rất nhiều về tư tưởng, tài năng và phong cách của một trong những cây bút phê bình văn học tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Tác giả tự chia bài tiểu luận của mình ra làm nhiều đoạn. Nhưng căn cứ vào nội dung và mạch văn, có thể thu lại thành ba phần: Phần I – Trình bày nguồn gốc lịch sử, văn hoá, cơ sở tư tưởng, tâm lí, xã hội của phong trào Thơ mới ; quá trình hình thành, vận động, phát triển và thắng lợi của thơ mới trong cuộc đấu tranh với thơ cũ đã suy vi (từ đoạn 1 đến đoạn 4). Phần II – Phân loại và nhận xét khái quát về các dòng khác nhau trong phong trào Thơ mới (dòng Pháp, dòng Đường, dòng Việt) ; những nhược điểm của thơ mới (đoạn 5, 6). Phần III – Định nghĩa thơ mới, thơ cũ từ hình thức đến nội dung (đoạn 7). Sách giáo khoa Ngữ văn 11 Nâng Cao, tập hai trích giảng một đoạn trong phần III của bài tiểu luận.
Qua những bài tranh luận giữa hai phái thơ cũ và thơ mới, thấy có sự không thống nhất với nhau về hiện tượng văn học gọi là thơ cũ hay thơ mới. Chẳng hạn về thơ cũ, người bênh vực thơ cũ thì chỉ nghĩ đến thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến,… là những “tinh hoa của mấy ngàn năm văn học” ; còn người phản đối thơ cũ, bênh vực thơ mới thì lại nghĩ đến toàn những bài thơ luật Đường nhạt nhẽo, vô vị đăng nhan nhản trên các báo chí đầu thế kỉ XX, nghĩa là những “cặn bã của một lối thơ đến lúc tàn”. Vậy trước hết phải xác định thống nhất đối tượng cần định nghĩa. Nếu không, cuộc tranh luận trở thành “ông nói gà, bà nói vịt”, dù có kéo dài đến muôn năm cũng chẳng đi đến đâu. Hoài Thanh rất có ý thức về vấn đề này. Ông viết : “Trước hết muốn tránh mọi sự lầm lẫn xin hiểu chữ thơ theo nghĩa chữ thi trong Kinh thi hay chữ poésie trong tiếng Pháp”, nghĩa là “hiểu theo nghĩa rộng”.
Tác giả bác bỏ những ý kiến định nghĩa thơ mới, thơ cũ gắn với một thể thơ cụ thể nào đấy và do đó dẫn đến lầm lẫn. Chẳng hạn Phan Khôi quan niệm thơ mới là thơ tự do. Thực ra, ở thời kì đầu của phong trào Thơ mới, không chỉ Phan Khôi, mà nhiều người khác cũng hiểu thơ mới như vậy. Tự do nghĩa là phá mọi luật lệ của các thể thơ truyền thống. Thơ tự do, kì thực chỉ là một thể trong vô số thể thơ được thơ mới sử dụng. Thể thơ này càng về sau càng ít thấy trong phong trào Thơ mới. Trái lại, nhiều bài thơ mới khá hay lại được viết theo thể thất ngôn, ngũ ngôn, lục bát, thậm chí thất ngôn bát cú Đường luật nữa (như một số bài của Hàn Mặc Tử và nhất là của Quách Tấn). Như vậy là phân biệt thơ cũ, thơ mới, quả cũng có chuyện hình thức, có chuyện thể thơ này khác phải bàn. Hoài Thanh gọi là vấn đề “hình dáng câu thơ”.
Nhưng đó không phải là điều quan trọng nhất. Điều quan trọng là nội dung, là linh hồn của thơ, hay nói như Hoài Thanh : “tinh thần” của thơ. Ông viết : “Bây giờ hãy đi tìm cái điều ta cho là quan trọng hơn : tinh thần thơ mới”. Đoạn trích giảng trong sách giáo khoa bắt đầu từ vấn đề “tinh thần thơ mới”. Không bàn về thể thơ, về hình xác của thơ mà bàn về “tinh thần” của thơ, thì đối tượng của định nghĩa lại cần phải được quan niệm thống nhất, chặt chẽ hơn nữa. Về điều này ta lại thấy sự sắc sảo trong tư duy lô gích của Hoài Thanh khi ông đưa ra hai giới hạn về đối tượng cần so sánh giữa thơ mới và thơ cũ : – Một là, “muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, thì phải sánh bài hay với bài hay” (của cả thơ mới và thơ cũ). Ông nói đúng : thơ không hay thì làm gì có tinh thần, còn có gì đáng gọi là tinh thần ! – Hai là, “muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể”, nghĩa là không nên căn cứ quá chi tiết ở bài thơ hay nhà thơ cụ thể, cá biệt nào. Đây là chuyện nhận biết sự khác biệt ở tinh thần chung của nền thơ hài thời đại. Vì vậy nếu so sánh những bài thơ, nhà thơ cụ thể thì chắc chắn sẽ vấp phải những trường hợp không tiêu biểu, không điển hình, ranh giới mới, cũ do đó khó phân biệt.
Tóm lại cách lập luận của đoạn văn rất kín cạnh, chặt chẽ, hợp lô gích. b) Luận điểm sâu sắc Trong đoạn văn trích giảng, có hai luận điểm hết sức cơ bản : – Một là giữa thơ mới và thơ cũ không có sự ngăn cách hay đứt đoạn tuyệt đối. Hoài Thanh đã có một cách nhìn vấn đề rất biện chứng. Ông viết : “Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau”, “Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”. Không biết có ý thức hay không, nhưng ông đã phát biểu rất đúng về quy luật của mọi cuộc cách tân văn học chân chính: đổi mới muốn thành công, nhất thiết phải trên cơ sở kế thừa và cải tạo truyền thống cũ. Những cây bút thơ mới không tuân thủ quy luật này trước sau đều bị lịch sử đào thải như trường hợp Nguyễn Thị Kiêm làm những câu thơ 27 chữ, hay Nguyễn Vỹ viết những dòng thơ có đủ mười hai chân như thơ Pháp… – Hai là, xét trên đại thể “tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời nay – hay thơ mới – có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta.
Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi”. Đây là luận điểm quan trọng nhất, sâu sắc nhất, nhưng không dễ lĩnh hội. Vì thế tác giả phải phân tích, giải thích cho sáng tỏ : cái tôi của thơ mới thể hiện quan niệm về cá nhân chưa từng có trong xã hội ta thời phong kiến. Cái tôi với “nghĩa tuyệt đối”. Cái tôi được dùng “để nối với mình, hay – thì cũng thế – với tất cả mọi người”. Nghĩa là cái tôi tự ý thức về sự tồn tại của mình trên đời như một cá nhân cá thể. Giá trị của mình như thế nào đều chỉ trông cậy vào chính bản thân mình mà thôi. Tác giả khẳng định, xã hội Việt Nam xưa “không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể : lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình” cái cá nhân và bản sắc của nó “chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Đây là một luận điểm lớn. Thời phong kiến trung đại, ý thức cá nhân không có điều kiện được phát huy.
Thời ấy, thái độ khinh trọng đối với cá nhân này, cá nhân khác, không phụ thuộc vào phẩm chất của chính cá nhân ấy mà tuỳ thuộc vào vị thế cao thấp, sang hèn của đẳng cấp, của gia đình, của dòng họ những cá nhân ấy. Điều ấy được phản ánh vào quan điểm thẩm mĩ thời trung đại. Nhà thơ thời trung đại phản ánh hiện thực hay biểu hiện tâm hồn mình phải thông qua một hệ thống ước lệ dày đặc, chặt chẽ, có tính phi ngã (impersonal). Màu sắc khác nhau của sáng tác các nhà thơ ấy, nhất là ở những cây bút lỗi lạc, không phải không có. Nhưng xét ra, đó chỉ là những biến thức khác nhau của cùng một quan niệm nghệ thuật thời ấy về thời gian, không gian, về mẫu người trượng phu quân tử,… Tất nhiên đấy là nhìn bao quát trên đại thể, còn nếu theo sát từng bước thăng trầm của chế độ phong kiến, thì quan niệm về cá nhân thời ấy không phải không có những chuyển biến.
Ở nước ta, vào khoảng cuối thế kỉ XVIII sang thế kỉ XIX, do sự khủng hoảng sâu sắc của xã hội và ý thức hộ phong kiến, trong văn học, người ta đã thấy cái tôi cá nhân bắt đầu cựa quậy và lên tiếng qua các tác phẩm của Phạm Thái, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ…, tuy rằng nó chưa tự khẳng định được một cách sâu sắc với ý thức tự giác thật sự như các nhà thơ mới sau này. Phải đợi đến đầu thế kỉ XX, nhất là từ những năm hai mươi, ba mươi trở đi, do cơ cấu xã hội thay đổi sâu sắc, do sự xuất hiện của những đô thị có tính chất tư bản chủ nghĩa với sự ra đời của nhiều tầng lớp xã hội mới, và do ảnh hưởng của tư tưởng, văn hoá, văn học phương Tây hiện đại qua tầng lớp trí thức Tây học ngày càng đông đảo, trong giới cầm bút ở nước ta mới có sự thức tỉnh sâu sắc về ý thức cá nhân. Và các nhà thơ mới mới có nhu cầu bức xúc thoát ra khỏi hệ thống ước lệ có tính phi ngã nói trên. Họ tạo nên phong trào Thơ mới (1932 – 1945). Đó là tiếng nói thơ ca của cái tôi cá nhân cá thể (individual). c) Luận cứ xác đúng Luận cứ ở một bài nghị luận bao gồm cả những lí lẽ và những bằng chứng thực tế nhằm chứng minh cho tính chính xác của các luận điểm.
Ở trên ta đã nói đến hai luận điểm của đoạn văn : một là, về tính kế thừa của thơ mới đối với thơ cũ ; hai là, sự khác nhau giữa thời đại của chữ tôi (thơ mới) và thời đại của chữ tư (thơ cũ). Để chứng minh cho luận điểm thứ nhất, trong phần trước của đoạn trích, khi bàn về các thể thơ, tác giả đã duyệt lại một lượt các thể thơ trong phong trào Thơ mới để thấy nhiều thể thơ truyền thống đã được dùng lại và có chỗ đứng vững chắc trong thơ mới – tất nhiên có những cải biến nhất định. Ngay thể thơ được coi như một sáng tạo tiêu biểu của thơ mới là thể tám chữ cũng có gốc rễ ở thể hát nói chứ không phải được sáng tạo từ con số không hay hoàn toàn vay mượn của phương Tây.
Phải nói, Hoài Thanh đã làm công việc này một cách rất công phu, rất tí mỉ – nhà phê bình không hề đưa ra những phán đoán theo tình cảm chủ quan hay theo ấn tượng chủ nghĩa như có người đã từng gán cho ông. Và để chứng minh cho luận điểm thứ hai, tác giả đã so sánh một bài thơ của Xuân Diệu với một bài phú của Nguyễn Công Trứ cùng viết về cảnh cơ hàn của nhà thơ : “Thi nhân ta (các nhà thơ mới – NĐM) cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Chữ ta với họ to rộng quá. Tâm hồn của họ chí vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi. Đừng có tìm ớ họ cái khí phách ngang tàng của một thi hào đời xưa như Lí Thái Bạch, trong trời đất chỉ biết có thơ. Đến chút lòng tự trọng cần để khinh cảnh cơ hàn, họ cũng không có nữa : Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt, Cơm áo không đùa với khách thơ.
Không biết trong khi rên rỉ như thế Xuân Diệu có nghĩ đến Nguyễn Công Trứ, một người đồng quận (cùng quê ở Hà Tĩnh – NĐM), chẳng những đã đùa cảnh nghèo mà còn lấy cảnh nghèo làm vui – Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no; Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ. (Hàn nho phong vị phú) – Tin xuân đã có cành mai đó, Chẳng lịch song mà cũng biết giêng. (Vui cảnh nghèo) 2. Áng văn hấp dẫn Bài tiểu luận của Hoài Thanh tuy có nội dung khảo cứu và lí luận sâu sắc, nhưng người đọc không cảm thấy khô khan. a) Một là vì, trong nhiều trường hợp, tác giả đã diễn đạt các khái niệm, các quy luật không phải bằng ngôn ngữ lí thuyết trừu tượng mà bằng lời văn có hình ảnh và nhịp điệu : “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng, ta đi tìm bề sâu.
Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.”…. Không nên quan niệm nhà phê bình dùng hình ảnh hay nhịp điệu chẳng qua chỉ là một cách để tô thêm son phấn, đeo thêm vòng xuyến vào bài viết của mình cho màu mè, hấp dẫn. Không, phê bình văn học tự bản thân nội dung của nó yêu cầu phải diễn đạt như thế. Phê bình văn học cũng là dạng của thể văn nghị luận. Đúng như thế. Nhưng những phán đoán, những lí lẽ của nhà phê bình văn học lại dựa trên sự cảm thụ những áng văn chương.
Đối tượng này không thể lĩnh hội được chỉ bằng lí trí đơn thuần. Nó còn đòi hỏi phải nhận thức và đánh giá bằng tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ nữa. Văn phê bình, vì thế phải chuyển tải đến người đọc, cùng một lúc, cả nội dung lí luận lẫn nội dung tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ. Nó cần đến hình ảnh, đến nhịp điệu, giọng điệu là để thực hiện nhiệm vụ ấy. Những hình ảnh trong văn phê bình có khác với hình ảnh trong văn sáng tác : nó phải thực hiện đồng thời hai chức năng : một là, diễn tả những ý niệm khái quát, những phát hiện về bản chất và quy luật của văn học ; hai là, phái truyền được tới người đọc tình cảm, cảm xúc trước cái đẹp của nghệ thuật ngôn từ. Phân tích những hình ảnh trong đoạn văn dẫn trên, ta thấy rất rõ văn phê bình của Hoài Thanh qua đã thực hiện được đầy đủ cả hai chức năng đó : vừa diễn tả được quy luật vận động của cái tôi thơ mới đi dần đến bế tắc, vừa giúp ta cảm nhận được đặc sắc riêng của thế giới nghệ thuật mỗi nhà thơ. b) Văn phê bình của Hoài Thanh có sức hấp dẫn còn vì một lí do nữa : sự hấp dẫn của hình tượng tác giá. Ấy là một cái tôi mê thơ, say thơ và hiểu thơ hơn cả chính những người làm thơ. Xét ra, ông cũng đích thực là con đẻ của “một thời đại trong thi ca”. Thời đại ấy đã sinh ra những Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, v.v. để làm ra thơ mới, đồng thời đẻ ra Hoài Thanh để bình về thơ mới.
Cho nên khi ông phân tích, diễn tả những hồn thơ kia thì cũng là ông phân tích, diễn tả chính lòng mình. Trong lời bạt viết cho cuốn Thi nhân Việt Nam, lấy tên Nhỏ to… Hoài Thanh cũng thú nhận như vậy : “Có một lần viết về lịch sử phong trào Thơ mới, tôi đã định làm miệng – y như các nhà học giả tập sự. Nhưng chỉ được vài trang, vui buồn lại cứ theo ngòi bút hiện trên trang giấy. Tôi dửng dưng sao được ? Tôi đã sống trong lòng thời đại. Kể lịch sử thời đại làm sao có thể không nhớ lại những năm vừa qua trong đời tôi”. Là một thanh niên yêu nước, lại được thức tỉnh về ý thức cá nhân do ảnh hưởng của văn hoá phương Tây hiện đại, Hoài Thanh cũng muốn đóng góp một cái gì cho đất nước, đồng thời khẳng định sự tồn tại có ý nghĩa của mình trên đời.
Trong hoàn cảnh mất nước, không có hành động nào có ý nghĩa hơn là đứng lên chống thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Hoài Thanh cũng biết như thế. Nhưng một lần va đầu vào bộ máy đàn áp của thực dân, ông hoảng sợ và mất hết tin tưởng. Ông đành cùng với các nhà thơ mới làm cách mạng trong thi ca vậy. Thi nhân Việt Nam là một đóng góp có giá trị cho cuộc cách mạng ấy. Mang nỗi tủi hờn của một kẻ bất lực trước thời thế, anh cùng những nhà thơ mới, dành dồn tất cả tình yêu đất nước vào tình yêu tiếng nói và thơ ca dân tộc, mong làm dịu bớt phần nào nỗi sầu vong quốc.
Cho nên Hoài Thanh viết về những nhà thơ mới mà cũng là tỏ bày chính nỗi niềm tâm sự của mình: “Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng”. Viết những dòng này, tôi chắc nhà phê bình vô cùng xúc động. Văn phê bình như thế thì có khác gì thơ trữ tình ! Người ta nói phê bình là người đại diện ý thức của các xu hướng, các trường phái văn học. Hoài Thanh rất xứng đáng là người đại diện ý thức của phong trào Thơ mới.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!