Phân tích vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện Vợ Nhặt – Đọc Tài Liệu
Tài liệu hướng dẫn phân tích vẻ đẹp của các nhân vật trong Vợ nhặt của Đọc Tài Liệu cung cấp gợi ý cách làm, cách lập dàn ý chi tiết và kèm theo một số bài văn mẫu hay tham khảo phân tích, cảm nhận vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.
Hướng dẫn làm bài phân tích vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện Vợ nhặt
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân.
1. Phân tích đề
– Yêu cầu: phân tích vẻ đẹp của các nhân vật (Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ)
– Dạng đề: phân tích nhân vật trong tác phẩm văn học.
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.
– Phương pháp lập luận chính : phân tích, cảm nhận, so sánh.
2. Hệ thống luận điểm
– Luận điểm 1: Phân tích vẻ đẹp của nhân vật anh cu Tràng
– Luận điểm 2: Phân tích vẻ đẹp của nhân vật người vợ nhặt
– Luận điểm 3: Phân tích vẻ đẹp của nhân vật bà cụ Tứ (mẹ Tràng)
Xem thêm: Sơ đồ tư duy Vợ nhặt
3. Lập dàn ý chi tiết
a) Mở bài
– Giới thiệu tác giả Kim Lân, hoàn cảnh ra đời truyện ngắn Vợ nhặt
– Vẻ đẹp tính cách và tâm hồn của các nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ.
b) Thân bài: Phân tích vẻ đẹp tính cách và tâm hồn của các nhân vật
Các nhân vật trong tác phẩm được tác giả miêu tả với hình dáng bên ngoài xấu xí, khắc khổ, tiều tụy nhưng tính cách bên trong đẹp đẽ, cao cả.
* Nhân vật Tràng:
– Là người lao động nghèo, ngoại hình thô kệch, vụng về trong ăn nói giao tiếp nhưng vui tính, dễ gần, trẻ con yêu quí.
+ Mỗi lần đi làm về, trẻ con trong xóm lại ùa ra vây lấy Tràng, reo cười váng lên.
+ Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn
– Người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng, có lòng cưu mang yêu thương đồng loại
+ Thấy người đàn bà đói, thân hình héo hắt, anh cho ăn
+ Thấy thị quyết theo mình thì Tràng cũng vui vẻ chấp nhận.
– Có khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và có ý thức xây dựng hạnh phúc.
+ Có ý thức xác nhận vị trí của người đàn bà trong gia đình
+ Bắt tay sắm sửa chuẩn bị cho cuộc sống mới
+ Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, thấy nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng, Tràng cảm thấy yêu thương và gắn bó, có trách nhiệm với gia đình, nhận ra bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.
– Sống có trách nhiệm
+ Bắt đầu quan tâm đến cuộc sống xung quanh, quan tâm đến mọi người.
+ Ngoan ngoãn, hiếu thảo, gần gũi với mẹ
+ Đối xử với vợ nhã nhặn, tôn trọng và rất chân tình
– Tôn trọng vợ với tư cách là một con người thực sự chứ không phải là một cái gì đó mà anh vừa nhặt được.
+ Sẵn sàng bỏ tiền mua dầu thắp sáng
+ Mua vài thứ lặt vặt cần thiết
=> Tràng trân trọng và mừng rỡ, nâng niu hạnh phúc ấy.
* Nhân vật người vợ nhặt
– Là nạn nhân của nạn đói:
+ Khuôn mặt gầy xọp hẳn đi vì đói, quần áo rách tả tơi,…
+ Bị cái đói che lấp mất bản tính tốt đẹp, làm tha hóa con người.
+ Vì quá đói, thị đã không còn biết xấu hổ nữa
+ Ăn liền một mạch hết bốn bát bánh đúc
– Là hiện thân cho những đau khổ và tủi cực của người dân lao động nghèo trước Cách mạng
+ Không có danh tính, tên gọi -> số phận thị như hòa lẫn với cuộc đời, số phận của bao người dân nghèo khổ khác lúc bấy giờ.
+ Cái đói, sự mấp mé với cái chết đã đẩy người phụ nữ vào tình huống trớ trêu: trở thành “vợ nhặt”
– Những xô đẩy của hoàn cảnh đã khiến thị “chao chát, chỏng lỏn”, tiều tụy, rách rưới và chấp nhận làm “vợ nhặt”
– Khi về làm vợ Tràng thì có nhiều thay đổi: tính cách dịu hiền, chịu thương, chịu khó chăm lo việc nhà chồng, đặc biệt có khát vọng sống, khát khao mái ấm gia đình, có niềm tin vào tương lai.
* Nhân vật bà cụ Tứ
– Là người mẹ nghèo khổ, vẻ ngoài bủng beo, u ám, khắc khổ
– Là người mẹ rất mực yêu thương con, thương dâu; đồng cảm sâu sắc với người cùng cảnh ngộ
+ Không khỏi cảm thấy lo lắng, băn khoăn cho số kiếp của mình và người phụ nữ khốn khổ kia
+ Cảm thấy tủi nhục khi không thể lo được việc cưới xin của con như ý muốn
+ Tủi hờn bởi nhà nghèo, không có nổi dăm mâm cơm mời làng xóm láng giềng
– Luôn an ủi động viên con sống tốt, có niềm tin vào tương lai, hạnh phúc tươi sáng, một con người lạc quan.
* Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Kim Lân
– Xây dựng được tình huống truyện độc đáo.
– Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn; dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc.
– Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng, thể hiện tâm lí tinh tế.
– Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi.
c) Kết bài: Đánh giá chung về các nhân vật:
– Kim Lân đã thể hiện một cách sinh động các nhân vật từ ngoại hình đến cử chỉ, lời nói, diễn biến tâm lí, tính cách. Điều đó thể hiện sự hiểu biết, lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn đối với những người lao động nghèo khổ và đây cũng là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
» Đọc thêm: Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt
Nghệ thuật xây dựng các nhân vật chân thực và độc đáo của Kim Lân trong Vợ Nhặt
Kim Lân là nhà văn có cái tài năng đặc biệt. Ông không chọn những nhân vật hay đề tài lớn lao để viết. Ông thích viết về những gì nhỏ bé, đáng thương và tìm kiếm trong đó những giá trị tốt đẹp để nâng niu, để trân trọng. Điều đó thể hiện rất rõ ràng trong việc xây dựng hình ảnh các nhân vật trong truyện ngắn “Vợ nhặt” – một truyện ngắn xuất sắc của ông trước 1945.
Nhân vật Tràng từ trong cuộc sống bước vào trang văn của Kim Lân chân thực gần như không gọt giũa gì. Nhà văn giới thiệu anh là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê nuôi mẹ già. Cuộc sống người dân ngụ cư vừa tủi cực vừa khốn khó. Anh ở trong một căn nhà rách nát, tồi tàn. Anh thường bị mọi người trêu chọc và khinh rẻ. Đến trẻ con cũng lấy anh làm trò đùa. Vì anh là dân ngụ cư. Đó là một gốc tích không mấy sáng sủa. Nó gợi ra số phận trôi nổi, lận đận và gian truân của lớp người vì bần cùng quá phải tha hương cầu thực, tìm kiếm nguồn sống trong xã hội.
Không những thế, Tràng lại có một ngoại hình rất thô kệch, xấu xí. Vai anh to bè ra. Cái lưng to rộng như lưng gấu. Dáng đi khom khom trong rất dị. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười. Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều. Hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
Hành vi của hắn lại càng thêm bí ẩn. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đuờng khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Tràng xuất hiện trước cuộc đời với những điều lạ lẫm. Rồi khi trở về, hắn lại chìm khuất trong bóng tối, trong cái nghèo cùng kiệt, trong góc khuất của riêng mình. Chỉ có mình hắn mới biết hắn là ai.
Thế nhưng, nhà văn đã xâm nhập vào cuộc sống của nhân vật này. Ông từng bước làm hiện ra trước mắt người đọc cuộc sống và tính cách của nhân vật bí ẩn ấy.
Cũng giống như bao nhiều người lao động hiền lương khác, Tràng là người khá vô tư và nông cạn. Hầu như anh không hề toan tính gì. Anh cũng không quá khổ tâm vè hoàn cảnh khốn khó của mình. Cuộc sống của anh cứ tiếp diễn từng ngày bình tâm và tin tưởng.
Tràng lại là người thích chơi với trẻ con. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn từ dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Ban đầu anh hơi khó chịu về những hành động ấy. Nhưng sau lâu dần anh lại thích bọn chúng. Chúng mang đến cho anh sự rộn ràng, thoải mái sau một ngày lao động cực nhọc. Chúng khiến anh quan tâm đến cái xóm ngụ cư vốn im lặng và lầm lũi trong đói nghèo. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.
Cái tính vô tư của anh thể hiện rõ nhất ở việc anh lấy vợ. Là dân ngụ cư, anh đâu dám mong có ai đó thương và chịu làm vợ anh. Từ lâu anh đã không dám nghĩ đến điều đó. Lại trong lúc cái đói, cái chết tung hoành, luồn lách sâu trong cuộc sống. Nó nằm kề cận với con người đêm đêm, thủ thỉ những lời ghê rợn. Thế mà, khi người đàn bà chỏng lỏn kia buông lời trêu ghẹo, Tràng cũng đáp lời vui đùa. Ai ngờ, lời nói chơi lại thành thật. Tràng hơi bất ngờ nhưng anh chậc lưỡi một cái và chấp nhận luôn. Thật là xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng.
Tràng là người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng. Trong cảnh khốn khó, nhờ có sức khỏe, Tràng dễ dàng tìm được công việc tốt. Ngoài kia biết bao người thất nghiệp, cù bơ cù bất, thấp thỏm đứng ngồi chờ đợi. Họ đối diện với cái đói, cái chết từng ngày. Anh thấu hiểu điều đó. Thế nên, thấy người đàn bà đói, thân hình héo hắt, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Có thể lúc đó anh không nhận thức hết được trách nhiệm của bản thân và những khó khăn sắp tới. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương đối với một con người đang đói khát hơn mình.
Sau khi người đàn bà theo Tràng về tới nhà, anh cũng có ý thức xác nhận vị trí của người đàn bà trong gia đình và bắt tay vào sắm sửa chuẩn bị cho cuộc sống mới.
Lấy nhau chẳng phải vì tình, lại “nhặt vợ” một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà Tràng coi thường người vợ của mình. Anh tôn trọng vợ với tư cách là một con người thực sự chứ không phải là một cái gì đó mà anh vừa nhặt được. Và để thể hiện điều đó, anh sẵn sàng bỏ tiền mua dầu thắp sáng, mua một thứ lặt vặt cần thiết để làm mới cuộc sống. Tràng tỏ ra trân trọng và mừng rỡ, nâng niu cái hạnh phúc vừa chợt đến.
Cảnh sống tăm tối trước mặt bị lu mờ, không đủ sức đe dọa con người nữa. Giờ đây, trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa gắn bó với người đàn bà trong một gia đình ấm áp. Trên đường cùng người đàn bà trở về, dường như có một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy. Nó cứ ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng. Tựa hồ như có bàn tay vuốt ve nhẹ trên sống lưng.
Chính nhờ người vợ nhặt ấy đã biến Tràng từ một người đàn ông vô tư trở thành một người sống có trách nhiệm. Anh ngoan ngoãn với mẹ hơn, tỏ ra gần gũi và hiếu thảo. Anh tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đối với vợ anh nhã nhặn, tôn trọng và rất chân tình. Anh thực sự đắm mình trong cuộc sống mới, trong hạnh phúc mới. Buổi sớm hôm sau khi trở dậy, Tràng như vừa bước ra khỏi cơn mơ đẹp, trong người thấy êm ái lửng lơ lạ kì.
Anh bắt đầu quan tâm đến cuộc sống xung quanh, quan tâm đến mọi người. Anh bắt đầu biết xác định vị trí của mình trong cuộc sống và không ngừng khát vọng đổi đời. Những biến cố xã hội lúc này tác động vào nhận thức và tâm hồn anh mãnh liệt. Anh thấy mọi người ầm ầm đi phá kho thóc của Nhật. Anh thấy đằng trước có lá cờ đỏ thắm.
Tất cả những hình ảnh ấy làm cho anh thấy tiếc rẻ và háo hức ở trong lòng. Từ đây, anh bắt đầu gắn cuộc đời mình với mọi người, với cộng đồng. Từ đây, công việc và cuộc sống của mọi người cũng là công việc của anh. Anh thấy mình cần có trách nhiệm hơn. Tình cảm ấy âm thầm chuyển biến mạnh mẽ trong tâm hồn người nông dân cục mịch, thô kệch, hiền lành và làm nên sức mạnh đấu tranh của lớp người cùng khổ sau này.
Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.
Sự gắn bó giữa Tràng và người đàn bà quả thật đã đem lại nhiều sự thay đổi lớn. Không chỉ có Tràng thay đổi mà chính vợ Tràng cũng thay đổi. Sau đêm tân hôn, Tràng nom thị hôm nay khác lắm. Rõ ràng thị là người đàn bà hiền hậu, đúng mực.
Giờ đây ở thị không có vẻ gì là chao chát, chỏng lỏn như mấy ngày trước. Thì ra chính cái đói nó che lấp mất bản tính tốt đẹp của con người. Cái đói làm tha hóa con người. Giờ đây, người phụ nữ ấy được yêu thương và tôn trọng. Chính điều đó làm cho thị trở về với đúng bản tính của người phụ nữ. Nó biến chị trở thành người vợ hiền hậu, thương yêu chồng và đúng mực.
Người “vợ nhặt” là hiện thân cho những đau khổ và tủi cực của người dân lao động nghèo trước Cách mạng. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Kim Lân đã không cho cô “vợ nhặt” một danh tính, một tên gọi như bao con người khác mà đây là một dụng ý của nhà văn. Dụng ý của ông là cuộc đời, số phận nhân vật này như hòa lẫn với cuộc đời, số phận của bao người dân nghèo khổ khác lúc bấy giờ.
Hình dáng bên ngoài của thị qua sự miêu tả của nhà văn bên ngoài thật thảm hại. Khuôn mặt gầy sọp hẳn đi vì đói, quần áo rách tả tơi,… Tình huống trớ trêu mà nhân vật người “vợ nhặt” phải trải qua.
Chính cái đói, sự mấp mé với cái chết đã đẩy người phụ nữ vào tình huống trớ trêu. Đó là phải chấp nhận làm người “vợ nhặt” theo không Tràng mà không hề cưới xin ăn hỏi gì. Đây là chi tiết thể hiện rõ sự đen tối của xã hội và thân phận bèo bọt, sự rẻ rúng của con người.
Cuộc sống khắc nghiệt đã góp phần làm biến đổi, tha hóa cô “vợ nhặt” đáng thương ấy. Đó không chỉ là sự thay đổi khốc liệt về hình thức. Chỉ sau mấy ngày không gặp mà thị gầy sọp lại đi. Đó còn một sự biến đổi ghê gớm về tâm tính. Bởi vì quá đói, thị đã không còn biết xấu hổ nữa. Được mời, thị đã ăn liền một mạch hết bốn bát bánh đúc. Lời nói thì chao chát, chỏng lỏn, không còn biết ngượng ngùng.
Nhưng đằng sau cái vẻ bề ngoài rách rưới, ăn nói chao chát, chỏng lỏn ấy, Kim Lân vẫn nhận ra những phẩm chất tốt đẹp, ngời sáng.
Về nhà Tràng, thị như thay đổi hẳn. Thị trở lại với bản tính một người phụ nữ. Thị cùng với bà cụ Tứ xăm xắm quét dọn nhà cửa, vườn tược. Hai ang nước vốn khô cong nay cũng đầy ấy nước. Không phải ai khác mà chính là cô “vợ nhặt” đã đem đến nhà Tràng một nguồn sinh khí mới, một sức sống mới. Điều đó khiến cho các thành viên trong gia đình điều thay đổi theo một hướng tích cực hơn.
Cũng chính cô “vợ nhặt” đã mở cho mọi người một niềm hi vọng đổi thay. Qua câu chuyện hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và những đoàn người đi phá kho thóc Nhật dự báo điều đó.
Sự thay đổi này cũng được thể hiện ở cả nhân vật bà cụ Tứ – mẹ Tràng. Lúc đầu, bà ngỡ ngàng trước thái độ săn đón, vồn vã của Tràng. Ngạc nhiên trước việc có người đàn bà lạ trong nhà mình (lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia,…).
Rồi sau, vì thương con, bà không khỏi cảm thấy lo lắng, băn khoăn. Khóe mắt cứ cay cay như muốn khóc. Nhưng rồi sau đó, lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự. Nó vừa ai oán, vừa xót thương. Ai oán cho số kiếp của mình. Lại thương xót cho con mình và cả người phụ nữ khốn khổ kia. Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót: “người ta có đói thì người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ”.
Bà cảm thấy tủi nhục cho gia cảnh nhà mình. Bà xót xa cho việc cưới vợ của Tràng không được diễn ra như ý muốn. Bà nhớ người chồng đã quá cố. Bà nhớ về cuộc đời dài dằng dặc, đầy những khổ đau của mình. Bà tủi hờn bởi nhà nghèo, không có nổi dăm mâm cơm mời làng xóm láng giềng. Bà cố gượng làm vui trước hạnh phúc mong manh của con trai. Bà ao ước mọi người cũng có được niềm vui như mình.
Thế nhưng, chỉ sau mấy ngày nỗi buồn bỗng dưng biến mất. Sự xuất hiện của người vợ nhặt kia đã làm thay đổi người mẹ cằn cỗi ấy. Bà xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rở hẳn lên. Bà lo lắng chuẩn bị bữa ăn đón nàng dâu mới cho chu đáo hơn trong hoàn cảnh có thể. Trong bữa ăn, bà toàn nói những chuyện vui vẻ, hạnh phúc về sau này.
Bà cụ Tứ là một người nhân hậu, thương mình, thương người, thậm chí thương người còn hơn cả thương mình. Dẫu sao việc Tràng có vợ cũng làm cho bà vui hơn. Bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn hơn ngày thường. Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên.
Thế nhưng niềm vui của bà thật ngắn ngủi. Nó không sao cất cánh hẳn được. Nó cứ bị nỗi buồn, nỗi lo âu níu kéo xuống. Mùi khói đốt đống rơm và tiếng hờ khóc người chết đói cứ vang lại. Tiếng trống thúc thuế lúc to lúc nhỏ như kéo mọi người trở về với hiện tại khắc nghiệt, phũ phàng.
Có thể nói, trong hoàn cảnh đen tối, khốn cùng nhất cũng không thể làm mất đi ở người dân lao động tình thương. Lòng nhân hậu, đạo nghĩa làm người trong họ vẫn ấm nóng trong mọi hoàn cảnh. Họ vẫn thèm muốn tìm đến hơi ấm của hạnh phúc. Họ khát khao được gây dựng đời sống giữa lúc khó khăn.
Dường như việc lấy vợ của Tràng đã thổi vào căn nhà u ám, nghèo nàn một luồng gió mới làm thay đổi tất cả. Các thành viên trong gia đình này vui vẻ thu xếp nhà cửa cho sạch sẽ, ngăn nắp hơn: “nhà cửa, sân vườn đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ. Hai cái ang nước vẫn cứ để khô cong nay đã đầy ăm ắp”. Họ nghĩ rằng: “thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn khấm khá hơn”.
Có vợ, Tràng thấy phấn chấn trong lòng và cùng với niềm hạnh phúc là ý thức trách nhiệm đối với mọi người, với cuộc sống. Hắn thấy mình cần có trách nhiệm, bổn phận để chăm lo, vun vén cho cái gia đình này. Vợ Tràng cũng thấy mình phải cố gắng làm được nhiều điều tốt đẹp để đền đáp lại tấm lòng tốt của người đàn ông đang cưu mang che chở cho mình.
Riêng bà mẹ của Tràng thì dường như lột xác, trở thành con người khác hẳn. Bà thấy mình khỏe ra, nhanh nhẹn hơn, thu xếp nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ. Bà còn hào hứng vạch ra kế hoạch dự tính về công việc làm ăn cho con trai. Đầu tiên là nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng mấy mà có đàn gà. Bà tin tưởng vào sự đổi đời. Bà nói toàn chuyện vui, động viên, khích lệ đôi vợ chồng trẻ…
Kim Lân đã khắc hoạ đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động và tình cảm các nhân vật bằng ngòi bút sắc sảo, tinh tế vô cùng. Qua cuộc đời khốn khổ và tủi cực của các nhân vật, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn của họ. Kim Lân đã tiếp nối những trang viết giàu chất nhân bản về người lao động bình thường của những nhà văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao….
Một số bài văn hay khác phân tích các nhân vật trong truyện Vợ nhặt
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ Nhặt” ra đời.
Lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết.
Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt chúng ta một không gian đói thật thảm hại, thê lương.
Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh của khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bòng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người – thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.
“Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường như một cái gì đó “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng dường như quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày qua”. Và Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp logíc. Những thay đổi ấy không có gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc. “Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự chuyển biến lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hoà thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế?
Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến đã bóp nghẹt quyền sống của con người. Thị xuất hiện không tên tuổi, không quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo rách bợt bạt”, điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người ấy lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống vào tương lai.
Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu cho tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh cu Tràng ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin vào cuộc đời phía trước trong những ngày con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lại, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét đẹp độc đáo vô cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ.
Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.
Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”. Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hoà lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi, chúng máy đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”.
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là một vật cản lớn. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đang giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi vịêc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình.
Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chề và vui vẻ giới thiệu “Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cúôi thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn lao ở những con người bình thường mà đáng quý.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở nhưng thân phận đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điếm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân – một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đô-xtôi-ep-ki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất.
Vẻ đẹp của các nhân vật Tràng, Thị và bà cụ Tứ qua truyện Vợ Nhặt
“Vợ Nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Có lẽ nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn sâu trong tâm trí Kim Lân, điều đó đã thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện – tác phẩm “Vợ Nhặt” ra đời . Lần này Kim Lân đã đưa vào tác phẩm một khám phá rất mới mẻ, đó là vẻ đẹp của tình người, của niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo khổ tiêu biểu như Tràng, như thị và bà cụ Tứ.
Nếu như “Nam Cao thường viết về những cái chết nhưng là những cái chết đòi được sống” thì Kim Lân trong một lần phát biểu, ông đã từng nói :“Khi viết về nạn đói, người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về những con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng đến cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Đó chính là tình yêu thương con người với con người, tình hữu ái giai cấp và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai tươi sáng của những con người đang đứng bên bờ vực thẳm của cái chết. Bằng cách tái hiện thảm cảnh đói khát năm 1945 và cuộc sống của ba người nông dân nghèo khổ là Tràng, là thị và bà cụ Tứ, Kim Lân đã cho ta thấy bức tranh hiện thực cuộc sống khốn cùng trong đại nạn đói năm Ất Dậu 1945 thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những cái thây nằm còng queo bên đường, những kẻ sống như người chết, xanh xám hay đi lại vật vờ như những bóng ma, những tiếng khóc hờ, nhưng tiếng quạ kêu gào thảm thiết. Nhưng sâu sắc hơn tác giả giúp ta cảm nhận được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam đó là dù trong đói khổ họ vẫn sẵn sàng yêu thương đùm bọc lẫn nhau, dù đang cận kề với cái chết họ vẫn khát khao hướng về cuộc sống, khát khao hạnh phúc gia đình, họ vẫn lạc quan nhìn về một ngày mai tươi sáng. Trong cái không gian tối đen như mực ấy, những mầm sống, những tình cảm yêu thương chân thành, bình dị nhưng rất đỗi cao quí vẫn đang cố gắng vươn đến tương lai.
Cả ba nhân vật xuất hiện trong tác phẩm của Kim Lân đều có chung một hoàn cảnh đó là họ sống trong đại nạn đói năm 1945, cả ba nhân vật đều đang bị cơn bão táp đói khát khủng khiếp đó quăng quật, vùi dập. Đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm là nhân vật Tràng. Tràng, một cái tên rất đỗi bình thường, đó là tên của một dụng cụ trong nghề mộc, rất mộc mạc. Tràng là một chàng nông dân nghèo sống ở xóm ngụ cư – thời đó xóm ngụ cư bị xem là xóm của nhưng kẻ ăn nhờ ở đậu và rất bị coi thường. Anh sống cùng một mẹ già – cũng chính là bà cụ Tứ trong một túp lều xiêu vẹo trên một mảnh vườn mọc toàn cỏ dại và mưu sinh bằng việc đẩy xe bò thuê. Hoàn cảnh vô cùng nghèo khổ, Tràng là một trong những nạn nhân chịu tác động ghê gớm nhất của cơn bão táp đói khát. Theo Kim Lân miêu tả, Tràng còn là một thanh niên xấu xí được: hai con mắt nhỏ tí, lúc nào cũng gà gà đăm đắm như nhìn vào bóng chiều, thân hình to lớn, vập vạp, thô kệch, cái lưng thì rông như lưng gấu, cái đầu trọc nhẵn, có thể nói rằng Tràng giống như một sản phẩm bị lỗi của tạo hóa. Danh ngôn có câu: “Hãy suy nghĩ những gì bạn nói chứ đừng nói nhưng gì bạn nghĩ” còn Tràng thì có thì có tật vừa đi vừa nói lảm nhảm, than thở những điều anh ta nghĩ, điều này cho chúng ta thấy Tràng còn là một người ngờ nghệch và ngốc nghếch, cũng có thể nói là dở hơi nữa. Đến đây Kim Lân hoàn toàn cho ta thấy anh cu Tràng là một trong những con người nghèo khổ và thuộc lớp người đáy cùng của xã hội thời bấy giờ.
Qua những nét vẽ ngoại hình và tính cách nhân vật Tràng mà nhà văn Kim Lân cho ta thấy ở trên, ta chưa thể thấy được vẻ đẹp tiềm ẩn của nhân vật. Vẻ đẹp của nhân vật Tràng được Kim Lân miêu tả qua hai lần gặp gỡ thị ở trên tỉnh. Lần thứ nhất Tràng gặp thị chỉ qua câu hò bông đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì”. Một câu hò chơi cho đỡ nhọc có lẽ bật lên từ thói quen tự nhiên của Tràng. Lần thứ hai, Tràng gặp thị, lần này thì thực sự vẻ đẹp của nhân vật mới được bộc lộ. Khi nhận ra thị, nhớ ra câu hò bâng quơ lần trước, Tràng toét miệng cười: “Chả hôm ấy thì hôm nay vậy”. Tràng tỏ ra có trách nhiệm với câu bông đùa của mình. Rồi: “Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu cái đã”, miếng giầu là đầu câu chuyện, là một trong những nét đẹp văn hóa của người Việt, một lời mời mang tính chất xã giao lịch sự. Thị không ăn giầu thì Tràng: “Đấy muốn ăn gì thì ăn” và còn vỗ vỗ vỗ vào túi: “rích bố cu” nghĩa là giàu có, nhiều tiền, ta có thể thấy đây là một chàng trai cực kì hào phóng, có khả năng làm điểm tựa cho thị. Khi thị ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc, Tràng vẫn giữ thái độ thản nhiên bình thường mặc dù với Tràng trong thời đoạn này để kiếm được tiền mua bốn bát bánh đúc cũng không phải là chuyện dễ dàng. “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” lời nói tưởng như đùa nhưng có lẽ nó xuất phát từ tình yêu thương, khát khao hạnh phúc bấy lâu nay ấp ủ, bật lên từ một khao khát đã có từ lâu trong Tràng. Đó là khao khát hạnh phúc. Khi thị đồng ý theo thật, lúc đầu Tràng cũng “chợn nghĩ”, nghĩa là Tràng cũng sợ. Có thể nói đó là một nỗi sợ chính đáng, một nỗi sợ hãi không hạ thấp nhân vật mà ngược lại đã cho ta thấy rằng Tràng cũng nhận thức sâu sắc hiện thực cuộc sống. Nhưng nỗi sợ hãi chỉ tồn tại trong Tràng có giây lát, Tràng đã “chậc kệ”, đã quyết định khá liều lĩnh đó là “đèo bòng” thêm thị. Như vậy dù sợ hãi nhưng khao khát hạnh phúc trong Tràng là quá lớn nên Tràng đã có thể chiến thắng được nỗi sợ hãi, Tràng đã đưa thị về ở cùng. Trước khi đưa thị về Tràng còn đưa thị vào chợ tỉnh mua vài thứ lặt vặt và cùng ăn một bữa no nê. Trong những thứ lặt vặt mà anh mua có cả hai hào dầu thắp sáng. Như vậy hành động của Tràng có thể nói là quá xa xỉ trong hoàn cảnh hiện tại, thế nhưng nó lại cho ta thấy Tràng cực kì trân trọng hạnh phúc mà Tràng đang có, cực kì trân trọng người phụ nữ đồng ý theo không Tràng. Tới đây Kim Lân cho ta thấy Tràng từ một chàng thanh niên ngờ nghệch, ngốc nghếch trở thành một chàng trai lịch sự, hào phóng, giàu lòng nhân hậu, sẵn sàng đùm bọc, cưu mang những người đồng cảng ngộ. Dù trong hoàn cảnh nào thì Tràng cũng luôn khát khao hạnh phúc đến mãnh liệt.
Trên đoạn đường đưa thị về nhà mặt Tràng có một vẻ gì phớn phở khác thường. Tràng tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Tràng vênh vênh cái mặt lên tự đắc, có thể nói Tràng đang vô cùng sung sướng và hạnh phúc vì khát khao hạnh phúc bấy lâu nay ấp ủ bây giờ được thỏa mãn. Tràng sung sướng lắm, Tràng tự hào về người phụ nữ đi bên. Có lẽ Tràng và thị đã bắt đầu có những dấu hiệu của tình cảm nam nữ, tình cảm đôi lứa.
Khi Tràng đưa thị về nhà ra mắt mẹ, chúng ta có lẽ rất tò mò, sốt ruột chờ xem anh Tràng ngờ nghệch, ngốc nghếch thưa chuyện cưới xin với mẹ như thế nào. Khi mẹ Tràng – bà cụ Tứ chưa về, Tràng nóng lòng sốt ruột mong ngóng mẹ, hết chạy ra ngõ đứng ngóng lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà. Khi mẹ về đến nhà thì Tràng reo lên như đứa trẻ được quà và lật đật chạy ra đón. Khi bà cụ Tứ vào tới nhà, thấy bà tỏ ý không hiểu thì Tràng đã liền mời mẹ ngồi lên vị trí trang trọng nhất: “thì u hẵng ngồi lên giường lên giếc chĩnh chện cái đã nào”, rồi “kìa nhà tôi nó chào u”. Cách xưng hô của Tràng “nhà tôi” nghe thân mật gần gũi, cách gọi này khiến cho người được gọi – ở đây là thị cảm thấy yên tâm, cảm thấy được bao bọc. Tràng giới thiệu thị với mẹ: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau . . . chẳng qua nó cũng là cái số . . .”. Đây là một lời giới thiệu có thể nói là cực kì khéo léo, Tràng dùng từ “bạn” chứ không dùng từ “vợ”, từ bạn mang sắc thái trung hòa và mối quan hệ bạn bè ít bị cấm đoán. Tràng hiểu lễ nghi, phép tắc của người Việt, nếu dùng từ “vợ” sẽ làm cho mẹ Tràng cảm thấy bị qua mặt. Tràng nói đến “duyên”, “kiếp”, “số” là những thứ tiền định, trời định, là con đường được vạch sẵn mà mỗi người phải đi theo, Tràng đã đặt mẹ vào tình huống khó chối từ. Một anh chàng ngốc nghếch, ngờ ngệch giờ lại trở thành một anh chàng thông minh khéo léo, phải chăng hạnh phúc đã làm con người ta đổi thay.
Trong buổi sáng ngày hôm sau, đó là một buổi sáng mùa hè, Tràng thức dậy với niềm vui sướng phấn chấn, Tràng nhìn căn nhà của mình và thấy nó có sự đổi mới, khác lạ, nhà cửa, sân vườn được quét tước, thu dọn sạch sẽ và như có sinh khí mới. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với Tràng lại rất thấm thía và cảm động. Bỗng Tràng thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Một nguồn vui sướng phấn chấn, đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ Tràng mới thấy mình nên người, thấy mình có bổn phận lo cho vợ con sau này. Đến đây ta cũng thấy được Tràng là người đàn ông biết coi trọng gia đình, có bổn phận lo cho vợ là hiện tại, cho con là tương lai, xứng đáng là hình mẫu của người đàn ông trong gia đình. Tràng thực sự đã trưởng thành.
- Các đề văn về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân
Sau những thông thị kể về việc đám người đói đi phá kho thóc Nhật, Tràng đã nghĩ tiếc vẩn vơ bởi vì có hôm Tràng đã gặp nhưng do không hiểu Tràng đã tránh đi lối khác. Từ đấy, hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ sao vàng cứ trở đi trở lại. Có lẽ, con đường đi tiếp theo của Tràng là đến với cách mạnh nếu Tràng có thời cơ, gặp được hoàn cảnh phù hợp. Trong Tràng có phẩm chất của một người cách mạng.
Kim Lân đã tập trung xây dựng hình tượng nhân vật Tràng bằng những ngòi bút khéo léo. Tràng được miêu tả từ ngoại hình đến tính cách đến hành động nhưng sâu sắc hơn là dòng diễn biến tâm trạng tự nhiên, khéo léo, linh hoạt. Tràng từ một anh thanh niên nghèo xấu xí, ngờ nghệch, dần dần trở thành một chàng trai lịch sự, hào phóng, giàu tình yêu thương, khát khao hạnh phúc, đĩnh đạc đường hoàng, suy nghĩ chín chắn. Tràng là một trong những nhân tố của quá trình cách mạng sau này.
Đi theo sau Tràng là thị, nhân vật thứ hai xuất hiện trong trong tác phẩm. Tràng và thị gặp nhau ở trên tỉnh, qua hai lần gặp gỡ, những lời bông đùa, mấy câu nói tầm phơ tầm phào, lời mời xã giao và bốn bát bánh đúc, thị theo không Tràng về nhà. Nhưng thị là ai ? “Thị” là từ để gọi chung cho nhưng người phụ nữ. Thị ở đây có thể là một người mà Kim Lân đã gặp đâu đó trong đám người đói nhưng chưa kịp biết tên, hoặc những người như thị không chỉ có một mà có rất nhiều số phận những người phụ nữ khốn khổ như vậy trong đại nạn đói năm 1945. Thị là người vô gia cư, không có việc để làm, hàng ngày cùng mấy chị con gái ngồi vêu ra trước cửa nhà kho, lê la nhặt hạt rơi hạt vãi, rồi ai có việc gì thì người ta thuê. Cuộc sống của thị bấp bênh, khốn khó, so với Tràng thị còn tội nghiệp hơn nhiều. Có thể nói thị là nạn nhân chịu tác động ghê gớm nhất của cơn bão táp đói khát. Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rách tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt trũng hoáy. Trông thị thật xấu xí, gầy gò và rách rưới. Qua vẻ ngoại hình tàn tạ của thị là bằng chứng Kim Lân cho ta thấy thị đang bị cơn bão táp đói khát quăng quẩy, giằng xé đến tả tơi. Thị đang đang bị quăng ra giữa dòng xoáy của đói khát, thị đang rất cần, rất cần một chiếc phao cứu sinh.
Cũng như nhân vật Tràng, ta chưa thể thấy được vẻ đẹp của nhân vật này chỉ qua hoàn cảnh và ngoại hình của thị. Lần thứ nhất gặp Tràng ở trên tỉnh, thị hành động của thị rất tự nhiên, lời nói cũng rất mạnh mẽ: khi bị mấy chị con gái đẩy ra đẩy xe bò cho Tràng thì thị cũng cong cớn đáp đùa lại rồi đứng dậy, lon ton chạy lại đẩy xe bò cho Tràng. Lần thứ hai gặp Tràng, lần này thấy Tràng, thị sầm sập chạy tới rồi trách cứ Tràng: “hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt”. Có lẽ lúc này thị đang quá đói, ta nhận ra điều này khi Kim Lân miêu tả thị, và Tràng bây giờ như một hi vọng để thị có thể bấu víu. Khi Tràng mời ăn giầu: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”, thị đang đói lắm. Và khi được Tràng mời ăn thì thị vẫn còn kịp hỏi lại: “Ăn thật nhá”, Tràng: “Rích bố cu” thì thị đã ngồi xuống ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc chả chuyện trò gì. Ăn xong thị đã chống chế cho cái sự ngượng ngùng của mình bằng một câu nói: “Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.” Thị đang quá đói nên lời mời của Tràng như một chiếc phao cứu sinh khi đang ở giữa dòng nước lũ. Thị đã bám víu thật chặt để sinh tồn, phải chăng đó chính là hành động của mọi con người khi bị đẩy bên bờ vực của cái chết mà họ vẫn khao khát cuộc sống. Có ý kiến cho rằng thị đã ăn thật khi Tràng mời chỉ mời xã giao nhưng khi buộc tội thị họ đã từng có bị đói như thị, đói, đói đến có thể chết nếu như thị còn lưỡng lự dù chỉ một giây trước lời mời ăn của Tràng, thị có nguy cơ bị cơn bão táp nuốt chửng, một giây thôi là sẽ tuột mất cơ hội cứu lấy mạng sống của mình. Thị đã chớp lấy cơ hội để được sống, để được tiếp tục sống, từ đây Kim lân đã làm sáng lên khao khát được sống mãnh liệt trong thị. Khi Tràng tiếp tục nói: “. . . có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” – thực sự lúc này Tràng đã trở thành chỗ dựa vững chắc trong suy nghĩ của thị. Thị nghĩ Tràng không chỉ giúp mình được sống mà còn có thể sống tốt nên thị đã đồng ý theo Tràng về thật. Đến đây, Kim Lân thực sự đã khẳng định rằng tất cả những hành động của thị, những quyết định của thị đều xuất phát từ khát khao được sinh sống, được tồn tại.
Trên đường theo Tràng về nhà, thị có vẻ rón rén, e thẹn, ngượng ngùng, không còn thấy vẻ cong cớn của cô thị ở trên tỉnh. Khi về tới nhà Tràng, thị thấy gia cảnh nhà Tràng cũng dúm dó, xiêu vẹo, chông chênh, hoàn toàn khác với những gì thị trông mong, thị thất vọng. Ngay lúc này, thị có thể bỏ đi, việc này cũng dễ hiểu vì những gì thị mong đợi là hoàn toàn không có thật. Thế nhưng Kim Lân đã cho chúng ta thấy thị nén một tiếng thở dài khi nhìn vào gia cảnh nhà Tràng, nghĩa là thị đang kìm nén sự thất vọng, thị đã chấp nhận thực tại. Khi Tràng đưa thị ra mắt bà cụ Tứ, mặc dù được bà cụ Tứ cư xử rất ôn hòa nhưng thị vẫn không tránh được sự tủi hổ, xót xa. Thị cúi xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Trong buổi sáng ngày hôm sau thị dậy sớm cùng mẹ quét tước, dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa cơm đầu tiên. Tràng nom thị hôm nay rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Quả thật trong mắt Tràng, thị cũng là người vợ đảm, dâu hiền. Trong bữa cơm ngày đói, khi bà cụ Tứ bưng lên món thứ hai gọi là “chè khoán” nhưng thực chất lại là “cháo cám” thị đã rất thất vọng, hai con mắt thị tối lại nhưng thị vẫn điềm nhiên và miếng cháo cám vào miệng. Điều này chứng tỏ thị biết cách cư xử tế nhị. Trong sâu thẳm suy nghĩ, thị đã đồng cảm với những khốn khó của gia đình Tràng mà bây giờ nó cũng là tổ ấm của thị. Thị đã kể với Tràng về những đám người đói đi phá kho thóc Nhật. Chính thị đã vẽ cho Tràng đi tới tương lai, đến với cách mạng và có thể nói hướng đi đó mới là hướng đi đúng đắn để đảm bảo cho những con người khốn khổ có tương lai.
Thị cũng là một con người khốn khổ, khốn khổ đến cùng cực nhưng ta có thể thấy được ở thị có những phẩm chất tốt đẹp đó là người vợ hiền, dâu thảo, biết đồng cảm, cư xử đúng mực, tế nhị. Cũng như Tràng, dù trong bất kì hoàn cảnh nào thị cũng vẫn khát khao được sống.
Nhân vật thứ ba trong tác phẩm là bà cụ Tứ – mẹ của Tràng. Bà là một nông dân nghèo khổ và cũng là một nạn nhân trong đại nạn đói năm 1945. Tuy nhiên khác với Tràng và thị, bà là thế hệ đi trước, đã từng trải, bà cụ đã già, sức đã yếu. Khi Tràng đưa thị về ra mắt, bà cụ rất ngạc nhiên khi nhìn thấy một người đàn đứng ngay đầu giường thằng con trai mình, trong đầu bà đặt ra hàng loạt những câu hỏi. Mắt bà nhoèn ra, dường như bà không tin vào mắt mình, không tin vào những gì bà đang nhìn thấy. Khi nghe Tràng giới thiệu xong về người đàn bà, bà lão cúi đầu nín lặng. Bà đã hiểu rồi. Lòng người mẹ ấy hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Bà thương con trai , bà tự trách mình không lo được việc dựng vợ cho con. Bà còn thương, còn đồng cảm thấu hiểu cho nàng dâu mới. Bà không coi thường thị vì bà cho rằng thị có gặp bước khó khăn, đói khổ thị mới lấy đến con trai của bà, con bà mới có được vợ. Mặc dù thị là người phụ nữ theo không, không cưới hỏi, không lễ nghi nhưng bà vẫn trân trọng người phụ nữ ấy. Như vậy ta có thể thấy bà cụ Tứ là một người mẹ thương con, thấu hiểu, đồng cảm với con, bà là người phụ nữ giàu lòng nhân hậu, đồng cảm với người đồng cảnh ngộ và sẵn sàng đùm bọc cưu mang những con người ấy.
Bà lão đồng ý cho Tràng nên vợ nên chồng, bà nói: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng. . .” nghĩa là bà cũng đồng ý trong sự vui mừng và mãn nguyện. Bà vui cùng niềm vui của con, bà lo trước nỗi lo của con. Có thể nói trong hoàn cảnh này bà cụ tứ xứng đáng là một người mẹ vĩ đại sẵn sàng đối mặt với khó khăn thiếu thốn để con mình được hạnh phúc. Khi các con mình bắt đầu bước trên con đường đời mới bà đã động viên, an ủi các con “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà đã gieo vào trong đầu các con một ánh nhìn lạc quan, một hi vọng vào ngày mai tươi sáng bởi đời bà và Tràng đã khổ thì đến đời con của Tràng chắc chắn sẽ bớt khổ hơn. Trong buổi sáng ngày hôm sau, bà lão cũng có vẻ gì đó khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên, bà lão xăm xắn thu dọn quét tước nhà cửa. Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo. Nhưng không khí trong bữa ăn thật vui vẻ, cả nhà đều ăn rất ngon lành vì bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện làm ăn sung sướng về sau này. Khi nồi cháo loãng mỗi người chỉ được hai lưng đã cạn, bà bê lên món ăn thứ hai, món “cháo cám” nhưng bà lại gọi bằng “chè khoán”. Chè khoán là món ăn mà trong lúc đói có thể coi là cao lương mĩ vị. Bà vừa múc cho các con ăn, vừa cười, vừa khen ngon, vừa động viên các con: “Xóm ta còn khối nhà chả có cám mà ăn đấy”. Trong bữa cơm ngày đói, ta có thể ví bà cụ Tứ như một bà tiên với đôi đữa thần trong tay, chạm vào cảnh nào đều thấy ấm cúng, chạm vào món nào, món ấy đều trở thành cao lương mĩ vị. Năng lượng đôi đũa thần trong tay bà cụ Tứ chính là niềm lạc quan.
Với nghệ thuật xây dựng diễn biến tâm trạng nhân vật tự nhiên, sinh động, Kim Lân đã cho ta thấy bà cụ Tứ là một người nông dân nghèo gần đất xa trời nhưng giàu lòng thương con, giàu tình nhân hậu, đồng cảm, bao dung với những người khốn khổ. Đặc biệt bà là người luôn lạc quan, luôn luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng mặc dù hiện thực tối tăm mà bà đã nhiều lần nhận thức được rất rõ.
Như vậy bằng việc miêu tả nhân vật từ ngoại hình đến tính cách, đặc biệt là dòng diễn biến tâm trạng nhân vật, Kim Lân đã làm bật lên vẻ đẹp của cả ba nhân vật trong truyện ngắn. Đó cũng chính là vẻ phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam. Dù trong đói khổ họ vẫn sẵn sàng yêu thương đùm bọc lẫn nhau, dù đang cận kề với cái chết họ vẫn khát khao hướng về cuộc sống, khát khao hạnh phúc gi đình, họ vẫn lạc quan nhìn về một ngày mai tươi sáng.
-/-
Các bạn vừa tham khảo nội dung phần dàn ý kèm theo một số bài văn mẫu hay phân tích vẻ đẹp các nhân vật Tràng, Thị, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt (Kim Lân). Qua việc phân tích các nhân vật này, các em cũng đã phần nào nhận thấy được những giá trị nhân đạo trong truyện Vợ nhặt được tác giả gửi gắm.
Truy cập kho tài liệu Văn mẫu lớp 12 để cập nhật thêm nhiều bài văn hay khác giúp bạn rèn luyện kỹ năng làm văn, chuẩn bị tốt cho các bài thi và kiểm tra môn Văn. Chúc các bạn học tốt !
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!