Phân tích quan niệm sống vội vàng của Xuân Diệu hay nhất

1. Dàn ý Phân tích quan niệm sống vội vàng của Xuân Diệu:

1.1. Mở bài:

– Dẫn dắt vấn đề: Tuổi trẻ là quãng thời gian đẹp nhất của con người, một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại…

– Nêu vấn đề: Bài thơ Con voi vàng đã thể hiện cái nhìn tích cực của Xuân Diệu về cuộc sống: Trân trọng hiện thực, sống hết mình, sống trọn vẹn từng phút của cuộc đời.

1.2. Thân bài:

a) Chân lý cuộc sống được thể hiện qua chủ đề của tác phẩm:

– “Vội vàng”: Sống hết mình để tận hưởng vẻ đẹp của đất trời, sống không ngại lãng phí quá nhiều thời gian, nhưng không có nghĩa là sống hời hợt và bỏ qua nhiều thứ; Cuộc sống là phải biết hưởng thụ và biết yêu thương.

b) Phân tích cụ thể tác phẩm:

– “Tôi muốn… bay đi”: Khát khao vượt qua giới hạn của con người: “tắt nắng, buộc gió” để giữ lại hương sắc, để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của đất trời.

– “ Của ong bướm… mím môi: Xuân Diệu vẽ nên một thiên đường đầy âm thanh và sắc màu

– Không gian tràn ngập màu sắc: Màu xanh của cây cỏ => Màu của sự sống tràn ngập nhất.

– Không gian tràn ngập âm thanh: Lời mời của Yến Anh.

=> Nhà thơ khắc khoải, khao khát được sống hết mình để tận hưởng vẻ đẹp của thế giới.

+ Điệp từ “bây giờ đây”: Niềm khao khát tận hưởng, lời mời gọi khó cưỡng của người tình quên lòng khi thăm trần gian.

+ Vẻ căng mọng, tràn đầy sức sống của mùa xuân được Xuân Diệu cảm nhận như “đôi môi kề môi” đầy quyến rũ

=> Người du khách càng yêu quý, trân trọng cuộc sống, trân trọng tuổi trẻ, nhưng càng hiểu giá trị của tuổi trẻ, anh ta càng lao mình vào cuộc sống.

– “Tôi vui… bao giờ nữa”: Xuân Diệu thay đổi cách sống

– Ông vừa mừng vừa lo, sung sướng được cảm nhận và thưởng thức vẻ đẹp của đất trời nhưng cũng tiếc nuối tuổi trẻ qua mau, sắc đẹp rồi cũng sẽ tàn phai, đất trời thì vô cùng. Cuộc sống chỉ là một thời gian ngắn…

– Anh chọn cách chạy đua với thời gian, nhưng vẫn sống khắc khoải lo lắng về tuổi thọ ngắn ngủi của mình.

– Anh hoài niệm về cuộc đời, về những điều mà có lẽ anh không thể nào chiêm nghiệm hết được.

=> Nỗi buồn của người nghệ sĩ lùi vào trong cảnh vật khiến họ cũng mang một nỗi buồn chia ly.

– “Mau đi thôi… cắn vào ngươi!””: Càng trân trọng, càng không muốn mất đi, con người càng tham lam.

– Lí trí và trái tim mách bảo Xuân Diệu hãy sống hết mình để không có điều gì ra đi phải nuối tiếc.

– Niềm khao khát bùng lên mãnh liệt, lên đến đỉnh điểm là cú “cắn” vào mùa xuân căng tràn nhựa sống.

1.3. Kết luận:

– Thoát khỏi quan niệm sống tích cực của Xuân Diệu.

– Nêu cảm nhận, suy nghĩ của em về quan điểm sống đó.

2. Phân tích quan niệm sống vội vàng của Xuân Diệu ý nghĩa nhất:

Nhà thơ được Hoài Thanh đánh giá là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” chính là Xuân Diệu chứ không ai khác. Thơ ông là nguồn sống dồi dào Tràn ngập sắc xuân của một nhà thơ say đắm tình yêu, cuộc sống và biết trân trọng, thưởng thức vẻ đẹp của cuộc sống. Tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu là bài thơ “Vội vàng” thể hiện một quan niệm sống rất mới mẻ và ý nghĩa với sức sống vàng son. Vì sao Xuân Diệu lại có được điều đó, hãy cùng tìm hiểu bài thơ mở đường đời của nhà thơ.

Vội vàng là tính từ chỉ tốc độ, sự nhanh chóng, gấp gáp. Theo Xuân Diệu, sống là sống nhanh, sống gấp để tận hưởng, tận hưởng hết mình, tận hưởng vẻ đẹp do thiên nhiên ban tặng. Sống vàng theo quan niệm của anh là một cuộc phiêu lưu tích cực, khác hẳn với lối sống gấp gáp của một số bạn trẻ ngày nay chạy theo những giá trị vật chất, sống hưởng thụ mà quên đi công việc, chạy theo những trào lưu thời thượng mà buông thả vào một lối sống tiêu cực vô nghĩa. Chính quan niệm vàng son phiêu bạt của Xuân Diệu đã thức tỉnh những ai ảo tưởng, mở đường cho những ai bơ vơ đi tìm lẽ sống đích thực.

Tại sao Xuân Diệu lại sống thâm thúy như vậy? Ông là nhà thơ luôn khát khao hòa hợp, đồng cảm với cuộc đời, yêu thương sâu sắc cuộc sống quanh mình. Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp mà thiên nhiên đã ban tặng cho ta, nhà thơ như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta đi hành hương chiêm ngưỡng cảnh đẹp hết nơi này đến nơi khác: vẻ đẹp của ong bướm tháng mật, hoa cỏ của đồng xanh. cánh đồng, cành lá rung rinh, tiếng chim yến hót, ánh sáng của hàng mi, thần Vui gõ cửa mỗi buổi sớm và điều tuyệt vời nhất là vẻ đẹp của tháng giêng được nhà thơ so sánh với một cặp. môi trường gần gũi của người yêu. Những vẻ đẹp ấy không phải tìm ở đâu xa mà là một “bữa tiệc ngon”, chốn bồng lai tiên cảnh giữa nhân gian. Không phải là vẻ đẹp đặc trưng của một vùng quê như thơ Nguyễn Khuyến, Hàn Mặc Tử hay vẻ đẹp trong “Tràng Giang” của Huy Cận mà thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu có ở bất cứ đâu, bất cứ miền quê nào qua vẻ đẹp bình dị của nó. xung quanh chúng ta. Nhà thơ vui hưởng thụ, đắm say với thiên nhiên nhưng cũng “vội vàng nửa vời”, tiếc nuối cảnh sắc đất trời trong những giây phút căng tràn nhựa sống trong những khoảnh khắc tươi đẹp của mùa xuân.

Đọc thêm:  Tả sông Hàn (11 mẫu) - Tập làm văn lớp 5 - Download.vn

Cuộc thi đấu sĩ sống vàng là vì anh nhận ra quy luật khắc nghiệt và hủy diệt của thời gian trôi. Nếu như trong văn học trung đại, các nhà thơ quan niệm thời gian là tuần hoàn, xoay vần thì với Xuân Diệu đó là thời gian tuyến tính một chiều không quay lại: “Xuân ngược nghĩa là xuân qua/Xuân không là xuân sẽ già/ Và khi xuân tàn, tôi cũng sẽ tàn, nếu người khác cảm thấy xuân đã qua khi hè đến, thì nhà thơ không cần đợi nắng đến rồi xuân mà nuối tiếc xuân dù nó đang hiện hữu, đối với ông, xuân là đến tức là đi qua, xuân thì trẻ cũng già, xuân tàn thì thi sĩ cũng tàn Xuân Diệu yêu mùa xuân của thiên nhiên đất trời, màu xuân của tuổi trẻ, tuổi trẻ qua đời trở nên vô nghĩa. Tuổi trẻ là nhất Quãng thời gian đẹp đẽ, ý nghĩa và hạnh phúc trong đời người.Bài thơ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, tác giả như muốn nhắn gửi đến người đọc rằng hãy trân trọng từng giây phút của thời gian, đặc biệt là những năm tháng tuổi trẻ ngắn ngủi, quãng thời gian mà chúng ta có sức khỏe, có ý chí, có niềm tin và có cơ hội để thử thách bản thân, hãy để mình bị “thất bại” để thấy cuộc đời còn nhiều ý nghĩa. Hình ảnh nhà thơ trước sự tàn phá của thời gian khiến mọi vật được nhân hóa, hiện tại như con người cũng biết buồn, biết sợ, biết sợ trước thời khắc trôi qua của mùa xuân. Vậy là kết thúc cho mạch cảm xúc là một câu cảm thán đầy tiếc nuối và một dấu chấm than, cùng với dấu chấm lửng thể hiện ý nghĩa không diễn tả được tâm trạng tiếc nuối của tác giả: “Không bao giờ nữa, ôi! Không bao giờ nữa…”

Vì khung cảnh trời xuân quá đẹp nên nhà thơ muốn “tắt nắng”, “buộc gió” can thiệp vào những quy luật của tự nhiên để lưu giữ hương sắc tươi đẹp của đất trời. Đó là ước muốn của một người muốn táo bạo, nghe có vẻ vô lý, nhưng đứng trong hoàn cảnh, trong tâm trạng thơ ta mới thấy nó có ý nghĩa vô cùng. Nhà thơ đang tiếc nuối cho tuổi trẻ của đất trời và con người nên đã kêu lên “Mau lên! Chiều chưa kịp lặn” ta đã từng gặp lời hẹn ước ấy trong câu thơ: “Mau lên mà đổi vàng lên/ Em ơi! em ơi, tình trẻ sắp già”. Lúc nào trong tâm trí Xuân Diệu cũng muốn thưởng thức trọn vẹn vẻ đẹp của thiên nhiên, muốn ôm ấp, vuốt tóc, nói chuyện, lê lết và cuối cùng là đau khổ. Dãy động từ được sắp xếp theo thứ tự tăng dần thể hiện khát khao cháy bỏng của nhà thơ được hòa mình, hòa mình vào thiên nhiên để tận hưởng trọn vẹn. Nếu không phải là người yêu đời say đắm, say đắm trước vẻ đẹp của đất trời làm sao có thể viết nên những vần thơ hay đến thế. Không có hồn thơ nào mà thiên nhiên lại bừng bừng sức sống mãnh liệt như trong bài thơ “Vội vàng”.

Như vậy, qua tác phẩm ta thấy được quan niệm sống trong màu áo vàng thật đáng trân trọng và đáng khâm phục. Qua đó, tác giả đã mang đến cho tôi cũng như độc giả những giá trị nhân văn sâu sắc. Sau khi nghiên cứu bài thơ, tôi nhận ra giá trị của thời gian, vẻ đẹp của cuộc sống không phải ở một cõi thần tiên xa xôi mà trong cuộc sống hàng ngày. Xuân Diệu đã dạy cho tôi biết sống có ích, có ý nghĩa, biết làm hết sức mình cho tuổi trẻ ngắn ngủi, cống hiến cho quê hương, biết hưởng thụ cuộc đời tươi đẹp.

Quan niệm vàng son của Xuân Diệu có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, trường tồn với thời gian và luôn đúng trong mọi thời, nhất là với lớp trẻ, như nhận xét của Hoài Thanh: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới – nên chỉ lớp trẻ mới thích. đọc Xuân Diệu mà đã thích thì phải yêu”.

3. Phân tích quan niệm sống vội vàng của Xuân Diệu hay nhất:

Một người rất hiểu và yêu thơ Xuân Diệu trước Cách mạng là nhà phê bình Hoài Thanh đã từng nhận xét rằng “Nhà thơ đã bộc lộ tâm hồn thật, con người thật nhất của mình khi viết những dòng thơ bộc lộ cảm xúc tinh tế, mong manh, mơ hồ. , những rung động không dễ gọi tên và càng khó nắm bắt”, chẳng hạn:

Mây biếc về đâu bay gấp gấp Con cò trên ruộng cánh phân vân

Những người nhận ra chắc chắn phải có căn cứ, có căn cứ. Tuy nhiên, với phần lớn chất độc, Xuân Diệu trước hết vẫn đóng giả là một thi sĩ của đam mê cháy bỏng, của tình yêu điên cuồng với cuộc đời, của một con người muốn giao cảm, hài hòa với tạo vật. Anh đã cất tiếng gọi tha thiết, luyến tiếc cuộc sống bức bách để tận hưởng mọi thú vui của cuộc đời. Và nếu phải kể thế nào là một bài thơ tiêu biểu nhất cho một hồn thơ, thì chắc hẳn không ai trong chúng ta không nhớ ngay đến một bài thơ – “Vội vàng”.

Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại, Cho hương đừng bay đi. Của ong bướm này đây tuần tháng mật, Này đây hoa của đồng nội xanh rì, Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si, Và này đây ánh sáng chớp hàng mi. Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Tôi sung sướng.

Cảm xúc vội vàng như thể hiện ở khổ đầu của bài thơ: khổ thơ duy nhất chỉ có năm chữ mà phần lớn là khổ thơ tám chữ. Thể thơ tám chữ gợi cho ta nhớ đến cách nói vốn có của Ca Trù và cách nói của Xuân Diệu, cùng thể hiện một nét mới của thơ mới. Cách khác đặt câu thơ ngắn trong trường hợp này nên theo nhịp nhanh như tiếng thở hổn hển của một người xúc động. Mặt khác, Xuân Diệu đặt trước câu lẻ hai chữ “tôi muốn”, chủ đề trữ tình lập tức xuất hiện. Nhà thơ thể hiện cái tôi một cách công khai, trắng trợn không thể tránh khỏi hoặc ẩn giấu, cái tôi hoàn toàn có ý thức, trái ngược với thơ ca trung đại, nơi rất ít cái tôi được thể hiện. Cách nhà thơ công khai tình cảm thẩm mỹ thơ ca thời đại trước, là thể hiện cái tôi trong khát vọng lớn lao, cái tôi muốn tắt đi sức mạnh tạo hóa để làm những việc mà chỉ thiên nhiên mới làm được như “ tắt” cho nắng đi” và “buộc gió”. Nhưng trong cách diễn đạt của nhà thơ, “tắt nắng” và “buộc gió” không phải là ý cuối cùng, bởi các vần của khổ thơ đều bắt đầu bằng một từ “cho”.

Đọc thêm:  Từ cảm nhận về cái “tôi” trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh hãy

Cho màu đừng nhạt mất,…… Cho hương đừng bay đi.

Mong muốn dại dột ấy cũng xuất phát từ mong muốn lưu giữ vẻ đẹp tinh tế của cuộc sống. Những câu thơ gợi lên cảm giác lo lắng sắc đẹp sẽ bớt thơm, màu nắng sẽ kém tươi nếu nắng cứ chiếu, hương sẽ bớt nồng nếu gió thổi. Nhưng niềm khao khát đó càng trở nên mãnh liệt hơn khi nhà thơ hai lần sử dụng điệp từ “đừng” – chứa đựng một niềm khao khát tha thiết. Mỗi chữ trong bốn câu thơ đều nói lên niềm ham sống vô bờ bến, niềm đam mê trở nên si mê, tham lam, khát khao giữ lại cho mình và cho đời cái đẹp, cái sống trong tạo vật.

Câu thơ năm chữ từ nhịp điệu vội vã của dòng năm chữ, rồi đột ngột tràn ra dòng tám chữ. Một sự chuyển biến rất đẹp của bài thơ, khiến người đọc được trải nghiệm một bức tranh xuân tuyệt vời. Trong bốn dòng thơ đã bố trí đầy đủ các từ “còn đây, còn đây” nằm rải rác khắp các dòng thơ vừa trùng điệp, vừa biến đổi. Những câu thơ gợi lên hình ảnh con người đê mê, đắm say, bồng bềnh trước mùa Xuân đang hé mở vào đời. Đó không chỉ là bức tranh xuân, xuân sắc, xuân tình mà còn là cách để tác giả nói về sự mê đắm về một mùa xuân của tuổi trẻ và tình yêu. Vì thế, không có con vật nào khác ngoài “bướm, yến”, vì nó gợi sự tán tỉnh, còn “bướm” gợi mùa xuân, tình yêu. Bài hát về tình yêu, và hơn thế nữa, “của tình yêu” gợi lên sự mê đắm. Bên cạnh đó, từ “của” lại đi cùng với “đây và đây” như một cặp không thể tách rời. Đó là cách để Xuân Diệu bày tỏ tình cảm của mình trước thiên nhiên luôn có sự kết đôi, vật nuôi nào cũng kết duyên vợ chồng, không thể tách rời nhau. Tất cả đều mang vẻ đẹp của tuổi trẻ và sức sống. “Những bông hoa” ngủ quên trên nền “xanh” của cánh đồng bạt ngàn, những “chiếc lá” của “nhành lụa” căng tràn sức sống tươi trẻ. Cảm giác không tơ, mộng mở càng được tôn lên trong cuộc phiêu lưu “bung lụa” phía sau. Và thế là cuộc sống hiện ra trong hình ảnh khu vườn địa đàng, trong cảm giác hân hoan trần thế. Giá trị nhân văn của những câu thơ và của cả bài thơ là ở đó.

Nếu như bốn dòng trên có vẻ cân đối, trọn vẹn thì đến câu thứ chín xuất hiện ba chữ “còn đây” như một người chưa vương, chưa muốn dừng lại, trong cảm xúc dâng trào. Tôi ân hận bày tỏ với mọi người niềm vui sống. Nhưng đó không còn là những đối tượng vật chất như “lá, hoa, ong bướm” mà là những đối tượng xa lạ là ánh sáng, niềm vui, thời gian – những đối tượng vô hình. Đó cũng là cách để nhà thơ bộc lộ một quan điểm thẩm mĩ mới mẻ, thú vị. Thiên nhiên đã không còn là tiêu chuẩn của cái đẹp trong quan niệm của Xuân Diệu. Vẻ đẹp của thiên nhiên chỉ được coi là đẹp khi nó có sự xuất hiện của vẻ đẹp con người. Ánh sáng đẹp vì nó gợi lên “hàng mi” của một đôi mắt đẹp. Niềm vui đẹp vì nó gợi lên hình ảnh của một vị thần, đại diện cho con người. Và cảm xúc thẩm mĩ được dâng cao trong đoạn thơ viết về tháng giêng, gợi vẻ đẹp táo bạo, say đắm, ngỡ ngàng của người đọc.

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Mùa xuân hiện ra gợi cảm lạ lùng bởi vẻ đẹp chờ đợi, sẵn sàng dâng hiến. Bởi vậy, mùa xuân như sinh ra để con người hưởng thụ, để hạnh phúc đến với con người, tạo nên một khía cạnh khác trong tinh thần nhân văn của bài thơ. Ở đó, vẻ đẹp tinh tế và quý giá nhất của con người chính là bản thân con người. Vì vậy, con người là hữu thể cao nhất chứ không phải tự nhiên, tôn giáo hay bất cứ tiêu chuẩn đạo đức nào. Con người trong đoạn thơ này đã được tôn lên thành chuẩn mực thẩm mỹ khiến người đọc ngẩn ngơ, sửng sốt. Tác giả đưa ra ý tưởng về tháng trẻ nhất của mùa trẻ nhất trong năm: “tháng giêng”. Nhưng điều bất ngờ đến từ từ thứ ba – “ngon”, điều ít ai có thể ngờ tới. Và không ai có thể nghĩ rằng tác giả lại so sánh với “cặp môi trường gần”. Nhưng với sự so sánh ấy, khoảng thời gian mà đối tượng mới trở nên gần gũi, mùa xuân hiện ra trong cảm xúc của một tâm hồn đang khao khát được tận hưởng. Vẻ đẹp thanh xuân dường như đã bị sở hữu hoàn toàn.

Đọc thêm:  Đoạn văn cảm nhận về một nhân vật trong Chiếc lá cuối cùng

Hình ảnh so sánh ấy giống như một người đang chờ đợi, sẵn sàng trao gửi yêu thương. Và phải có một tình yêu cuộc sống thực sự nồng nàn thì tác giả mới tạo nên một hình ảnh lạ lùng như vậy.

“Tôi sung sướng”

Tiếng nói chắc chắn sẽ được nâng lên sau tất cả những gì được viết ở trên. Nhưng sau ba từ ấy lại có một khoảng ngắt giữa các câu, khiến cho niềm hạnh phúc mê say ấy dường như bị ngắt quãng, dừng lại giữa chừng để trở thành một niềm vui dang dở, không trọn vẹn. Vì sau dấu ba chấm là một từ “nhưng” dự báo một cảm xúc hoàn toàn mới. Màn biến cố vàng xuất hiện ở hiệp hai. Nhà thơ dường như không thể tận hưởng mùa xuân một cách trọn vẹn bởi cảm giác hoài niệm dù mùa xuân chưa tàn. Và cảm xúc của nhà thơ đã đi theo hướng ngược lại, một phản đề xuất hiện:

Nhưng vội vàng một nửa.

Ai đã từng nghe hai câu đầu của bài phản đế cũng đều cảm phục sâu sắc.

Xuân đương đến nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.

Cái mới lạ, cái táo bạo, cái khám phá lớn nhất của hai câu thơ nằm ở hai chữ “nghĩa” tưởng chừng như rất đỗi bình thường, khiến cho câu thơ như có một lớp nghệ thuật. Tác giả đã mạnh dạn đặt dấu bằng vào hai hư cấu tưởng như trái ngược nhau: “tiến” đối lập với “đi qua”, “không” đối lập với “cũ”. Cách nói thời gian thật phù du mới ấn tượng làm sao. Nó thậm chí còn có ý nghĩa hơn đối với một người mà cuộc sống của họ đồng nghĩa với tuổi trẻ, được thể hiện bằng phương trình thứ ba:

Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.

Ở đây mùa xuân còn là mùa của tình yêu, của tuổi trẻ. Cảm xúc kích hoạt một loạt các câu theo sau. Nhà thơ muốn đảo ngược mọi quan niệm thông thường:

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật.

Bây giờ đối tượng của “rộng” không còn là trời đất mà là “cái tôi” cá nhân, và cái nhỏ bé không còn là con người, mà là “trời đất”. Nhưng điều đáng nói là những gì đã ra đi sẽ không bao giờ quay trở lại. Nhà thơ đang nhìn cái nhìn nhân danh cái tôi, lắng những nỗi niềm, trăn trở trước thiên nhiên, tạo vật.

Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.

Trời đất có nghĩa lý gì khi tuổi trẻ của tôi không kéo dài. Mùa xuân theo chu kỳ có nghĩa là gì khi mùa xuân của tôi không theo chu kỳ. Nhà thơ đã liệt kê những khao khát bất tận của tuổi trẻ để tạo nên sự mới lạ cho bài thơ.

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt. Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc.

Có phải bực bội vì nỗi nhớ phải bay xa. Chim hào hứng đón tiếng hoan hô. Hình ảnh gió và chim trở về nhưng không còn mang ý nghĩa về vẻ đẹp nồng nàn của sự sống như thuở ban đầu. Những hình ảnh ấy giờ đây như tiếc nuối, xa xăm. Gió vẫn đẹp mê hồn – “thì thầm trong lá xanh” mà vẫn bay đi. Con chim vẫn ríu rít như “khúc ca thiết tha” nhưng báo trước một sự diệt vong. Những điệp khúc anh trỗi dậy thành nỗi ám ảnh:

Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…

Nhưng con người yêu sống Xuân Diệu không dễ dàng khuất phục trước sự sắp đặt của tạo hóa nên cái “tôi” đã tìm ra cách giải quyết một vấn đề không dễ giải – đó là “đường sống vàng”. “. Nếu không thể kéo dài tuổi thọ, nhà thơ đề nghị tăng tốc độ và cường độ của cuộc sống. Vì vậy, chủ đề từ của câu thơ bắt đầu bằng một lệnh giục, giục vàng.

Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm. Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và mây, và cỏ rạng; Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng. Cho no nê thanh sắc của trời tươi; -Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.

Hai chữ “muốn” ở đầu bài thơ trở lại nhưng nhiều hơn, phiêu hơn, rình mò hơn. Nhưng bây giờ “muốn” không còn là “tôi” mà là “tôi”. Sự kiện vàng kích thích con người ta rộng lượng hơn để có thể ôm trọn cả cuộc đời. Theo cách đó, “ta” được hình dung như thân xác của một người rất thân thương, thân thương, một người bà con mang một vẻ trẻ trung dịu dàng, cho một tia sáng và đam mê, và nhà thơ viết “cỏ rực rỡ”. mùa xuân ấm áp”. Tác giả lâng lâng như muốn tận hưởng hết cuộc đời tươi đẹp huy hoàng trong những cử chỉ nồng nàn, say đắm nhất, mỗi lúc một cao trào: “ôm – héo – mông hôn nhiều lần”.

Điều đó cho thấy một Xuân Diệu muốn tận hưởng mùa xuân như một bữa tiệc sinh nhật, để được “thử thách, no đủ, no đủ”. Và câu thơ cuối cùng được coi là táo bạo nhất trong những câu thơ táo bạo:

Hỡi xuân nồng, ta muốn cắn vào ngươi.

Đoạn thơ thể hiện một trạng thái say mê tột đỉnh đối với mùa xuân và cuộc đời này. Ý thơ của Xuân Diệu có lẽ cũng chịu ảnh hưởng của ý thơ của nhà thơ Pháp Anna de Nowai. Bởi chính nhà thơ cũng muốn để lại dấu răng của mình trên quả táo thời gian.

Đánh giá bài viết

Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!

Dustin Đỗ

Tôi là Dustin Đỗ, tốt nghiệp trường ĐH Harvard. Hiện tôi là quản trị viên cho website: www.hql-neu.edu.vn. Hi vọng mọi kiến thức chuyên sâu của tôi có thể giúp các bạn trong quá trình học tập!!!

Related Articles

Back to top button