Bài văn Thuyết minh về làn điệu chèo (DÀN Ý + VĂN MẪU), hay

Chủ đề: Giải thích làn điệu chèo

Tôi nghĩ tôi ở đây để chết

Giải thích làn điệu chèo

I. Dàn ý Thuyết minh về Chèo (Chuẩn)

1. Mở bài:

Giới thiệu về nghệ thuật chèo dân gian.

2. Thân bài:

một. Chung:

Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian cổ của Việt Nam, phát triển mạnh ở miền Bắc, trọng tâm là vùng đồng bằng sông Hồng.- Là loại hình nghệ thuật quần chúng, được sử dụng trong các lễ hội, nghi lễ, …- Chèo không chỉ phản ánh xã hội mà còn đi sâu vào bản sắc dân tộc, là sự kết tinh của mọi loại hình dân tộc.

b. Nguồn gốc và sự phát triển:

– Hình thành và phát triển từ thế kỷ X, dưới thời nhà Đinh, tương truyền có nguồn gốc từ nghề nhái.- Đất kinh đô của Chèo là cố đô Hoa Lư.- Người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, vũ nữ trong cung, sau đó truyền ra khắp Đại Cồ Việt.- Vào thế kỷ 14, Chèo có một dấu mốc quan trọng: chịu ảnh hưởng của kinh kịch Trung Quốc.- Vào thế kỷ 15, chèo về làng quê Việt Nam gắn liền với sinh hoạt, lễ hội của người dân trong các lễ hội cầu mưa, tạ ơn thần thánh, … không được vua Lê Thánh Tông, người theo Nho giáo cho phép. biểu diễn trong cung điện.- Từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 19 là đỉnh cao của sự phát triển của nghệ thuật chèo.- Thế kỷ 20, Chèo trở lại thành phố và một số vở chèo mới ra đời.

c. Đặc điểm của chèo:

– Làn điệu chèo không dựa vào kịch bản mà dựa vào sự phong phú trong cách hát và diễn xuất của diễn viên.- Chèo có thể hát theo cặp, hát đơn ca hoặc hát đồng ca.- Chèo hội tụ tất cả các làn điệu dân ca đồng bằng sông Hồng như hát Xoan, hát Xẩm, …- Mỗi vở chèo sẽ bao gồm: kịch bản kịch, phương thức tự sự, biểu cảm nhân vật thông thường gắn với các câu thơ chữ Hán, điển tích, câu lục bát tự do, …- Nội dung: Miêu tả cuộc sống của người dân quê cũng như đức tính cao đẹp của họ với lối diễn hài hước, gây cười.

– Nhân vật trong Chèo có 5 loại: Sinh, Đạo, Lão, Mụ, Hề.+ Hề, Lão, mụ: hành động mộc mạc.+ Sinh, Đạo: diễn xướng theo lối cổ điển, có hình tượng văn học.+ Vai hề chỉ có duy nhất ở Chèo, lột tả được những thói hư tật xấu, chọc cười thiên hạ.

– Nhạc cụ: một buổi biểu diễn chèo phải có ít nhất 3 loại nhạc cụ dây: đàn, đàn, nhị, sáo và nhất thiết phải có trống.

d. Các yếu tố tạo nên một vở chèo hoàn chỉnh:

Gồm 5 yếu tố: kịch bản, nghệ thuật, đạo diễn, vũ đạo, diễn xuất của diễn viên.- Kịch bản văn học: tạo chất lượng chèo và tư duy chèo- Diễn xướng: là linh hồn của vở chèo.- Nghệ thuật: là bối cảnh, là đất diễn.- Giám đốc: là người sắp xếp học sinh, chủ trì, là người dạy nghề.- Múa: diễn tả tâm trạng, nội dung nhân vật, …

e. Các làn điệu chèo và tổ chức chèo hiện nay:

– Các làn điệu chèo: có hơn 200 làn điệu chèo khác nhau.- Các đơn vị tổ chức Chèo: gồm chuyên và không chuyên: Nhà hát Chèo Việt Nam, Nhà hát Chèo Quân đội, Nhà hát Chèo Hải Phòng, Đoàn Chèo Phú Thọ, Đoàn Chèo Quảng Ninh, …

Đọc thêm:  Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai hay nhất (Sơ đồ tư duy + 12

3. Kết luận:

Các làn điệu chèo là nét văn hóa cần được bảo tồn và phát huy.

II. Bài văn mẫu Thuyết minh về làn điệu chèo (Chuẩn)

Việt Nam là đất nước có hàng nghìn năm văn hiến với nền văn hóa đa dạng, đặc sắc, mang những nét riêng, khác biệt so với các nước láng giềng. Người ta biết đến Việt Nam không chỉ qua hình ảnh nón lá, áo dài, áo tứ thân mà còn qua những làn điệu dân ca đặc sắc như cải lương, tuồng, hát bội, hát Xoan. Trong đó có các làn điệu chèo.

Nghệ thuật chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống của Việt Nam. Nó được phát triển mạnh mẽ nhất ở miền Bắc Việt Nam với trọng tâm là đồng bằng sông Hồng. Đây là loại hình nghệ thuật sân khấu rất phát triển và mang tính dân tộc cao. Là loại hình nghệ thuật dân gian, phổ biến, thường được sử dụng trong các lễ hội, nghi lễ, phong tục, … ở các làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Nó đã đi sâu vào đời sống văn hóa của con người và xã hội Việt Nam. Bởi Chèo không chỉ phản ánh xã hội mà còn đi sâu vào bản sắc dân tộc – một con người bình dị, kiên cường, lạc quan, có tinh thần yêu nước, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc đến cùng. Nghệ thuật chèo là sự kết tinh trọn vẹn của các thể loại văn học như sử thi, sử thi, lãng mạn… nên vô cùng đa dạng và đặc sắc.

Theo những sử liệu còn sót lại, Chèo đã trải qua một quá trình lịch sử kéo dài hơn mười thế kỷ. Bắt đầu hình thành và phát triển từ thế kỷ X, dưới thời nhà Đinh, đời vua Đinh Tiên Hoàng. Chèo được cho là có nguồn gốc từ âm nhạc và các điệu múa dân gian của vùng đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là các điệu chèo. Theo thời gian, các vở chèo dựa trên các bản nhại trở nên đầy đủ hơn, các vở dài hơn, khiến người xem mãn nhãn khi thưởng thức. Kinh đô của Chèo là cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) và người sáng lập ra làn điệu chèo đầu tiên là bà Phạm Thị Trân – một nghệ sĩ múa trong cung đình. Bà được vua phong là Ưu phu nhân, chuyên truyền nghề múa hát cho các vũ nữ cung đình. Nhờ vậy mà Chèo đã lan rộng ra khắp lãnh thổ Đại Cồ Việt.

Vào thế kỷ 14, khi đất nước ta bước vào thời kỳ kháng chiến chống quân Mông – Nguyên, nghệ thuật chèo trong thời gian này cũng có một bước tiến, một dấu mốc quan trọng. Đó là khi quân ta bắt được một ca sĩ trong quân Nguyên Mông tên là Lý Nguyên Cát. Lý Nguyên Cát vốn xuất thân là diễn viên, đã diễn vở Kinh kịch “Vương mẫu tặng đào” cho vua và các triều thần. Nhà vua hài lòng nên tha tội chết và truyền dạy lối hát đó cho binh lính Đại Việt. Kể từ đó, hát bội đã tác động trực tiếp đến các loại hình sân khấu dân gian của Việt Nam như tuồng, chèo, … làm cho các loại hình sân khấu này trở nên đa dạng hơn cũng như có thêm những vai diễn mới như bà chúa. (đào), hoặc quan (kép), …

Đọc thêm:  Thông tư 45/2021/TT-BGDĐT xây dựng trường học ... - LuatVietnam

Nếu như thế kỷ 14, Chèo được coi trọng trong cung đình thì đến thế kỷ 15, Chèo đã trở lại làng quê Việt Nam do vua Lê Thánh Tông chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Vương quốc. Lúc này, chèo gắn liền với các hoạt động, lễ hội của người Việt như lễ hội cầu mưa, tạ ơn thần linh. Các chữ viết được lấy từ các câu chuyện trong cuộc sống hàng ngày và viết bằng chữ Nôm.

Thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 19 là thời kỳ mà chèo đạt đến đỉnh cao. Lúc này, chèo vẫn đang phát triển mạnh ở các vùng quê Việt Nam, nhưng các kịch bản do các nhà Nho biên soạn như vở “Lưu Bình – Đường Lễ” do danh sĩ Vũ Trinh sáng tác,… hay chịu ảnh hưởng của đầu thế kỷ 20, Chèo được đưa trở lại thành phố và một số vở mới ra đời.

Nếu nghệ thuật Tuồng thường mang âm hưởng hùng tráng thì Chèo lại tạo nên sự khác biệt nhờ giọng hát và diễn xuất của các diễn viên. Sự phong phú và khác biệt của Chèo hoàn toàn dựa vào kép hát, đào hát chứ không dựa vào các kịch bản. Chèo là thể loại hát sân khấu nên có thể hát đơn ca, song ca hoặc đồng ca. Chèo là nơi hội tụ của tất cả các làn điệu dân ca của vùng đồng bằng sông Hồng như hát Xoan, hát Bội, hát Xẩm,… Mỗi vở chèo đều bao gồm các yếu tố kịch, phương thức tự sự, biểu hiện tính cách. ký tự, quy ước và cách điệu. Đó là lý do tại sao Chèo đôi khi sử dụng các bài thơ chữ Hán, các tác phẩm kinh điển xưa và các bài dân ca với thể thơ rất phóng khoáng và tự do.

Về nội dung, nghệ thuật chèo miêu tả cuộc sống đời thường của người dân nông thôn, ngợi ca những phẩm chất cao quý của họ. Cũng giống như trong truyện cổ tích, trong các vở chèo, cái thiện luôn chiến thắng cái ác, những người lính chăm chỉ, hiền lành chắc chắn sẽ thành công, … Một đặc điểm rất khác. Đặc điểm nổi bật của các vở chèo là chất trữ tình cũng như chất hài hước của chúng với các vai như ông giáo mù, người điếc, … đặc biệt là hề. Nhân vật trong các vở chèo thường có 5 loại chính: Sinh, Dao, Lão, Mụ và Hề. Trong khi Hề, Lão, Mụ diễn theo lối mộc mạc thì Sinh và Đạo thường diễn theo lối cổ điển, gần với hình tượng văn học. Tính cách của nhân vật chính trong Chèo thường xuyên xuyên suốt vai diễn trong khi các nhân vật phụ có thể được lặp đi lặp lại trong nhiều vở và thường không có tên riêng.

Đặc sắc nhất trong Chèo là các vai hề. Người ta thường nói “hề hư diễn chèo”, nghĩa là không có vai hề thì không thể trở thành một vở chèo hoàn chỉnh. Bởi hề là một vai diễn vô cùng đặc trưng trong các làn điệu chèo và đã được khẳng định qua nhiều vở chèo truyền thống. Những vai hề thường đả kích những thói hư tật xấu của xã hội, mang lại tiếng cười sảng khoái cho khán giả cũng như truyền tải ý tưởng, tinh thần của vở diễn.

Đọc thêm:  Sơ đồ tư duy Tấm Cám - Đọc Tài Liệu

Một vở chèo phải sử dụng ít nhất ba loại nhạc cụ có dây: đàn tính, đàn tính và đàn nhị. Ngoài ra, các nhạc công phải sử dụng cả trống và chũm chọe. Trống là linh hồn của âm nhạc trong Chèo, nó điều khiển nhịp điệu cũng như hành động của các diễn viên.

Các yếu tố để tạo thành một vở chèo hoàn chỉnh phải kể đến: kịch bản văn học, diễn xuất, nghệ thuật, đạo diễn và các điệu múa. Trong khi kịch bản văn học là yếu tố cơ bản nhất tạo nên chất lượng và tư duy chèo, thì diễn xuất của các diễn viên chèo chính là linh hồn của một vở chèo. Một vở chèo, làn điệu chèo có thể diễn đi diễn lại nhiều lần, nhưng cái hay nhất chính là cách xử lý, diễn xuất kỳ công của các diễn viên để tạo cho mỗi vở diễn, vở chèo có những nét hay, đặc sắc. riêng. Yếu tố thứ ba là nghệ thuật của vở chèo, với bối cảnh, nơi diễn xướng, dàn dựng sân khấu,… đều góp phần không nhỏ vào thành công của vở diễn. Thứ tư là đạo diễn vở chèo. Đó là công việc của những bậc thầy làm nghề, của những người dạy chèo với tư cách là người hướng dẫn. Họ là những người thầm lặng đứng sau tạo nên sự hoàn hảo của một vở kịch. Và cuối cùng là những điệu múa trong nghệ thuật chèo, thể hiện tâm trạng, lột tả nội tâm nhân vật, cũng như thể hiện không gian, thời gian.

Có hơn 200 làn điệu chèo phổ biến cho đến nay. Tất cả đều bắt nguồn từ ca dao, dân ca, thơ trữ tình. Ta có thể chia thành các hệ thống như hệ thống đối đáp trữ tình, hệ thống làn điệu sắp, hệ thống làn điệu trò chơi, …

Hiện nay, ở Việt Nam đã có các tổ chức chèo chuyên nghiệp và không chuyên như: Nhà hát Chèo Việt Nam, Nhà hát Chèo Quân đội, Nhà hát Chèo Hải Phòng, Đoàn Chèo Phú Thọ, Đoàn Chèo Quảng Ninh,… Ngoài ra, Chèo còn được công nhận là bốn hàng. của Chèo, cụ thể là Chèo Nam Bộ, Chèo Bắc Bộ, Chèo xứ Đoài và Chèo miền Đông. Mỗi hàng cờ đều bao gồm các khu vực riêng với các thế diễn riêng biệt, tạo nên nét riêng cho mỗi trận đánh.

Các làn điệu chèo đã trở thành một nét văn hóa nghệ thuật quen thuộc của người Việt Nam từ bao đời nay. Nó đã đi sâu vào tâm thức của mỗi con người Việt Nam, trở thành một nghệ thuật không thể thiếu trong đời sống hàng ngày như ca dao:

“Không muốn ăn, không ăn chả giòThèm cơm chán, thèm xem hát chèo ”.

—————-KẾT THÚC—————-

https://thuthuat.taimienphi.vn/thuyet-minh-ve-lan-dieu-cheo-68879n.aspx Với nền văn hóa lâu đời, đa dạng về bản sắc, nghệ thuật dân gian của Việt Nam ngoài chèo còn có nhiều bộ môn nghệ thuật khác như múa rối nước, tuồng, … Hãy cùng tìm hiểu những nét văn hóa nghệ thuật đó qua bài viết Thuyết trình về nghệ thuật Múa rối nướcDiễn giải nghệ thuật tuồng, Giải thích về sự cải cách Mô tả một loại nhạc (hoặc sân khấu) mà bạn yêu thích.

Đánh giá bài viết

Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!

Dustin Đỗ

Tôi là Dustin Đỗ, tốt nghiệp trường ĐH Harvard. Hiện tôi là quản trị viên cho website: www.hql-neu.edu.vn. Hi vọng mọi kiến thức chuyên sâu của tôi có thể giúp các bạn trong quá trình học tập!!!

Related Articles

Back to top button