Giới thiệu về Tết Trung thu hay nhất (Sơ đồ tư duy + 11 mẫu) – Văn 8
Thuyết minh về Tết Trung thu tuyển chọn 11 mẫu hay nhất, kèm theo 3 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp các em học sinh lớp 8 hiểu rõ hơn về nguồn gốc, đặc điểm các nghi thức diễn ra trong Tết Trung thu.
Tết Trung thu còn được gọi là Tết Thiếu Nhi hay Tết Trông Trăng, Tết Hoa Đăng, được tổ chức vào ngày rằm tháng 8 âm lịch (15/8), là dịp để mọi người sum họp, quây quần phá cỗ, đón trăng. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn:
Giới thiệu về Tết Trung thu hay nhất
- Sơ đồ tư duy Thuyết minh Tết Trung thu
- Dàn ý thuyết minh Tết Trung thu (3 mẫu)
- Thuyết minh về Tết Trung thu hay nhất (11 mẫu)
Sơ đồ tư duy Thuyết minh Tết Trung thu
Dàn ý thuyết minh Tết Trung thu
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về Tết trung thu.
2. Thân bài
a. Nguồn gốc:
- Nguồn gốc: Giả thuyết cho rằng Tết trung thu bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước cách đây khoảng 13.000 năm với ý nghĩa là lễ hội mừng thu hoạch được mùa.
- Ở Trung Quốc, Tết Trung thu gắn liền truyền thuyết vua Đường Minh Hoàng lên cung trăng chơi sau đó trở về ra lệnh lấy ngày rằm tháng 8 mở lễ hội vui chơi, rước đèn thưởng trăng.
- Ở Việt Nam, Trung thu có lịch sử từ thời cổ đại đã được khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, đa số các sự tích Trung thu Việt Nam gắn với chú Cuội và chị Hằng.
b. Các nghi thức, hoạt động diễn ra trong Tết Trung thu
- Bánh Trung Thu: bánh nướng, bánh dẻo truyền thống
- Rước đèn lồng, đèn ông sao: trẻ em rước đèn lồng quanh xóm
- Tổ chức văn nghệ múa hát, múa lân, hát trống quân: chương trình giao lưu văn nghệ, tổ chức múa hát cho mọi người dân cùng xem
- Phá cỗ trông trăng: bày mâm cỗ gồm hoa quả bánh kẹo thắp hương dưới trăng rồi phá cỗ ngồi quây quần bên nhau ăn bánh, uống trà, ngắm trăng
c. Ý nghĩa của ngày Tết Trung thu
- Cầu mong cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu
- Là dịp đoàn viên, sum vầy gắn kết tình cảm gia đình
- Tết để trẻ em vui chơi, gìn giữ văn hóa dân tộc.
3. Kết bài
- Ý nghĩa của Tết Trung thu trong đời sống hiện đại, cảm nghĩ của em về ngày Tết Trung thu.
……
Thuyết minh về Tết Trung thu hay nhất
Thuyết minh về Tết Trung thu – Mẫu 1
Tết Trung thu là một lễ hội quan trọng trong văn hóa của người Việt Nam nói riêng và các nước Châu Á nói chung. Chỉ đứng sau dịp Tết Nguyên đán, Tết Trung thu mang những ý nghĩa đặc biệt, giá trị tinh thần to lớn. Trung thu ngày nay không còn giữ được nhiều nét cổ truyền từ xa xưa nhưng vẫn có sức hấp dẫn đối với mọi thế hệ, dù là ai cũng háo hức chờ đón đến Trung thu, mong muốn được trở về nhà để đón Trung thu.
Hiện nay vẫn chưa xác định được chính xác thời gian xuất hiện của Tết Trung thu. Có giả thuyết cho rằng, tết Trung thu bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước cách đây 13.000 năm với ý nghĩa là lễ hội mừng thu hoạch được mùa. Tết Trung thu xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc gắn liền truyền thuyết vua Đường Minh Hoàng lên cung trăng chơi sau đó trở về ra lệnh lấy ngày rằm tháng 8 mở lễ hội vui chơi, rước đèn thưởng trăng. Còn ở Việt Nam, nhiều bằng chứng cho thấy ngày Tết Trung thu đã có từ thời trống đồng Ngọc Lũ, hình ảnh ăn mừng nhảy múa ngày trăng tròn mùa thu được in trên mặt trống, đa số các sự tích Trung thu Việt Nam gắn với chú Cuội và chị Hằng.
Trung thu ở Việt Nam từ xưa đến nay vẫn không khác là mấy, cứ đến tháng 8 âm lịch hàng năm là mọi gia đình, mọi nơi đều háo hức chuẩn bị cho ngày rằm tháng 8, đón cái Tết Trung thu thật ấm cúng. Bánh Trung thu là một thức quà không thể thiếu trong dịp Tết Trung thu, các loại bánh Trung thu thường là bánh nướng và bánh dẻo, đều được làm từ bột gạo với nhân bánh làm từ thịt mỡ, các hạt như đỗ xanh, hạt sen, hạt bí,… Các loại bánh này được dập khuôn với nhiều hình ảnh đẹp mắt, bánh nướng có màu nâu vàng, bánh dẻo có màu trắng đục, bánh nào cũng có vị ngọt đậm và thơm nức.
Bánh Trung thu còn được coi là thức quà quý để mọi người biếu tặng nhau trong dịp này với ý nghĩa chúc bình an, gia đình hòa thuận, sum vầy. Hoạt động được yêu thích nhất trong dịp Tết Trung thu là nghi thức rước đèn, đèn lồng truyền thống được làm từ các khung tre, nứa, dùng giấy kính bóng dán lên rồi thắp nến bên trong. Còn ngày nay đèn lồng chủ yếu là đèn điện, với nhiều hình thù khác nhau như đèn cá chép, đèn ông sao, đèn hình các con vật… những ngày cận, trong và sau Tết Trung thu khắp ngõ xóm đều sáng ánh đèn trung thu.
Nếu Trung thu ở Trung Quốc thường múa rồng thì ở Việt Nam chúng ta thường múa lân, kết hợp với các tiết mục văn nghệ múa hát, ca ngợi tình yêu quê hương đất nước. Mọi người sẽ cùng kéo nhau tập trung đến các nhà văn hóa thôn, xóm, quận để cùng vui ngày Tết. Mâm cỗ trông trăng là điểm nhấn của ngày Tết Trung thu, không quá cầu kì chỉ có những loại hoa quả dân dã như bưởi, chuối, thị, na…, bánh dẻo bánh nướng, một số bánh kẹo khác. Sau khi đi rước đèn về hoặc khi đã xem hết chương trình vui Tết Trung thu, mọi người sẽ trở về nhà, cùng ngồi quây quần bên nhau phá cỗ, ăn bánh uống trà và ngồi ngắm trăng. Tết Trung thu từ thời cổ đại mang ý nghĩa ăn mừng được mùa và cầu cho vụ mùa sau bội thu. Ngày nay vẫn với ý nghĩa đó, người dân mừng Tết Trung thu với mong muốn bình an, mưa thuận gió hòa, ấm no, hạnh phúc. Tết Trung thu còn được gọi là Tết Đoàn viên vì đây là dịp đoàn viên, sum vầy gắn kết tình cảm gia đình Có lẽ vì Trung thu có nhiều chi tiết dành cho trẻ em nên dần dà Tết Trung thu giống như ngày Tết của thiếu nhi với nhiều hoạt động vui chơi, được ăn bánh rước đèn lại được phát quà. Dịp Trung thu cũng là để giáo dục cho thế hệ trẻ gìn giữ những nét văn hóa truyền thống của dân tộc.
Tết Trung thu luôn có ý nghĩa đặc biệt với những người con xa xứ, dù sống ở nơi đầy đủ, dù sang giàu thì vẫn đều mong muốn được sống trong không khí Tết Trung thu truyền thống, bình dị và ấm áp ở quê nhà. Dù nhịp sống hiện đại ngày nay khiến chúng ta phải bận rộn và quay cuồng với công việc, học tập thì hãy cố gắng dành thời gian trở về nhà với ông bà cha mẹ vào ngày Tết Trung thu nhé!
Thuyết minh về Tết Trung thu – Mẫu 2
Với nền văn hóa đa dạng và độc đáo, hàng năm nước ta có không ít những ngày lễ tết cổ truyền giàu ý nghĩa như tết nguyên đán, tết thanh minh, tết táo quân,….Trong đó không thể không kể đến tết trung thu ngày tết gắn liền với niềm vui, tiếng cười thiếu nhi.
Trung thu mang nghĩa là giữa mùa thu. Có thể hiểu tết trung thu được tổ chức vào giữa mùa thu hay chính là ngày rằm tháng tám hằng năm khi mặt trăng sáng và tròn đầy nhất. Đây chính là một trong những nét đẹp văn hóa của các đất nước Á Đông. Ở nước ta, tết trung thu có xuất hiện từ rất lâu rồi và được cho là ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên không vì thế mà ngày tết này làm mất đi bản sắc Việt.
Tết trung thu đến luôn là niềm vui của mỗi đứa trẻ. Không giống như ngày lễ thiếu nhi quốc tế 1/6 được du nhập về từ phương Tây cha mẹ cho trẻ em đi chơi, tết trung thu gắn kết mọi người trong gia đình, thể hiện niềm quan tâm, yêu thương. Trong ngày tết này, người lớn sẽ chuẩn bị một mâm cỗ lớn với đầy đủ các loại bánh kẹo, hoa quả được trưng bày đẹp mắt, cầu kì. Và đặc biệt không thể thiếu được thức quà đặc trưng bánh trung thu. Bánh trung thu có hai loại là bánh nướng, bánh dẻo ngày trước thường có hình tròn tượng trưng cho mặt trăng. Thời gian qua đi chiếc bánh cũng được biến tấu thêm màu mè, kiểu dáng, hương vị. Chuẩn bị kĩ càng mâm cỗ, khi mặt trăng lên cao, tỏa rạng cũng là lúc gia đình quây quần bên nhau, trẻ em được phá cỗ, ăn uống. Không những vậy, các em còn được tụ tập tham gia rất nhiều trò chơi. Trên những dãy phố, ánh đèn lồng với hình: con cá, con thỏ,… rực rỡ sắc màu tỏa sáng, trẻ con nối đuôi nhau vừa đi rước đèn vừa cười đùa thích thú. Sau đó các em cũng được thỏa sức tổ chức các trò chơi khác cùng nhau vui đùa đón trăng. Đâu chỉ có trẻ em mới được hưởng niềm vui, người lớn cũng góp phần. Cả gia đình ông bà cha mẹ bên nhau sau những tháng ngày mệt mỏi vì công việc thường ngày, cùng ngắm trăng, ăn bánh, trò chuyện vui vẻ ngoài hiên nhà.
Và phần đặc sắc và hấp dẫn nhất thường vẫn luôn là màn múa sư tử. Những anh thanh niên khoác trên mình chiếc áo lấp lánh, người đội đầu sư tử, người khom lưng làm đuôi. Đầu sư tử được làm bằng giấy bồi, với đôi bàn tay khéo léo nó được làm nên mang chút nghiêm nghị nhưng cũng không kém phần duyên dáng, tinh nghịch. Người điều khiển sư tử dẻo dai múa đầy tài tình, hấp dẫn. Những màn nhảy lên chồm xuống theo nhịp trống liên hồi khiến người xem không khỏi kinh ngạc. Thi thoảng lại có chú cuội, chị Hằng đeo mặt nạ màu mè phe phẩy chiếc quạt đi chọc ghẹo mọi người. Màn đêm tĩnh mịch thường ngày vì thế mà bị phá tan, chỉ còn ánh trăng chảy lênh láng trong không gian, đọng lại trong những tiếng cười giòn giã.
Những nét đẹp cổ truyền luôn rất giàu ý nghĩa. Ngày tết thiếu nhi tất nhiên là nó phải mang lại cho trẻ em niềm vui, gắn kết gia đình. Không những thế nó còn mang nét rất đặc trưng của đất nước có nền văn minh lúa nước. Tết trung thu thể hiện mong ước của mọi người về một mùa màng bội thu. Nhìn trăng cũng là một cách để dự đoán thời tiết, vụ mùa thậm chí là cả vận mệnh quốc gia theo kinh nghiệm dân gian. Có thể thấy ngày tết trung thu mang rất nhiều ý nghĩa sâu xa.
Cuộc sống hiện đại hôm nay bận rộn với guồng quay cơm áo gạo tiền tết trung thu cũng đã được thay đổi đi rất nhiều. Tuy nhiên giá trị của nét văn hóa cổ truyền đẹp đẽ ấy không vì thế mà phai nhạt, nó vẫn giữ một vị trí quan trọng không thể thiếu trong lòng bất cứ người con đất Việt nào.
Thuyết minh về Tết Trung thu – Mẫu 3
Tục lệ ăn bánh hình mặt trăng trong dịp Tết Trung thu đã có từ thời Bắc Tống ở Trung Quốc, cách đây trên 1.000 năm. Trong đêm 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng còn gọi là bánh “đoàn viên”, bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà.
Trong đêm trung thu thường có các lễ hội và như: rước đèn, múa lân. Nếu như ngoài Bắc gọi là múa sư tử thì trong Nam lại gọi là múa lân. Lân là con vật thần thoại, thân hươu, móng ngựa, đuôi bò, miệng rộng, mũi to, có một sừng ở ngay giữa trán, lông trên lưng ngũ sắc, lông dưới bụng màu vàng. Tục truyền, lân là con vật hiền lành, chỉ có người tốt mới nhìn thấy nó được.
Tết Trung Thu của người Việt có nhiều điểm đặc biệt khác với Tết Trung Thu của người Trung Hoa. Theo phong tục người Việt, bố mẹ bày cỗ cho các con để mừng trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn.
Thông thường một mâm cỗ trung thu sẽ bao gồm như sau: kẹo, mía, bưởi, và các thứ hoa quả khác nhau và đặc biệt thứ không thiếu được là bánh trung thu. Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng, và các ân nhân khác. Thật là dịp tốt để con cháu tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ và để người đời tỏ lòng săn sóc lẫn nhau.
Trung thu là dịp để trẻ em được vui chơi và cũng là dịp để con cháu báo hiếu với cha mẹ. Tết Trung Thu là tết của trẻ em. Sửa soạn mọi thứ như: cỗ đèn muôn màu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh Trung Thu, với những đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy.
Mâm cỗ Trung Thu thông thường có trọng tâm là con chó được làm bằng tép bưởi, được gắn 2 hạt đậu đen làm mắt. Xung quanh có bày thêm hoa quả và những loại bánh nướng, bánh dẻo thập cẩm hoặc là loại bánh chay có hình lợn mẹ với đàn lợn con béo múp míp, hoặc hình cá chép là những hình phổ biến. Hạt bưởi thường được bóc vỏ và được xiên vào những dây thép, phơi khô từ 2-3 tuần trước khi đến hôm rằm, và đến đêm Trung Thu, những sợi dây bằng hạt bưởi được đem ra đốt sáng. Những loại quả, thức ăn đặc trưng của dịp này là chuối và cốm, quả thị, hồng đỏ và hồng ngâm màu xanh, vài quả na dai… và bưởi là thứ quả không thể thiếu được. Đến khi trăng lên tới đỉnh đầu chính là giây phút phá cỗ, mọi người sẽ cùng thưởng thức hương vị của Tết Trung Thu. Phong tục trông trăng cũng liên quan đến sự tích Chú Cuội trên cung trăng, do một hôm Cuội đi vắng, cây đa quý bị bật gốc bay lên trời, chú Cuội bèn bám vào rễ cây níu kéo lại nhưng không được và đã bị bay lên cung trăng với cả cây của mình. Nhìn lên mặt trăng, có thể thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, và trẻ em tin rằng, đó là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa.
Bên cạnh đó còn có các hoạt động như: Hát trống quân-Tết Trung Thu ở miền Bắc còn có tục hát trống quân. Những câu hát vẫn (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát. Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Sau này, điệu hát trống quân đã được Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) áp dụng khi ngài đem quân ra Bắc đại phá quân nhà Thanh vào năm 1788. Trong lúc quân sĩ rất nhớ nhà, ngài cho một số binh lính giả làm gái để trai gái đôi bên hát đối đáp với nhau trong khi người ta đánh trống theo nhịp ba để phụ họa. Do đó, quân lính vui mà bớt nhớ nhà. Điệu hát trống quân được thịnh hành từ thời Nguyễn Huệ trở đi. Người Trung Hoa không có phong tục này. Tết Trung Thu của người Hoa không có phong tục này.
Vào dịp Tết Trung Thu có tục múa Sư tử còn gọi là múa Lân. Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có những phong tục này. Người ta thường múa Lân vào hai đêm 14 và 15. Ðám múa Lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Ðầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân. Ðám múa Lân đi trước, người lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các nhà tư gia thường có treo giải thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy.
Trẻ em thì thường rủ nhau múa Lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền. Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v.
Tết Trung Thu là một phong tục rất có ý nghĩa. Đó là ý nghĩa của săn sóc, của báo hiếu, của biết ơn, của tình thân hữu, của đoàn tụ, và của thương yêu. Chúng ta cố gắng duy trì và phát triển ý nghĩa cao đẹp này.
Thuyết minh về Tết Trung thu – Mẫu 4
“Tết Trung Thu rước đèn đi chơiEm rước đèn đi khắp phố phườngLòng vui sướng với đèn trong tayEm múa ca trong ánh trăng rằm ”
Câu hát ấy đã nằm lòng với bao người, đã gắn bó với thời thơ ấu của bao nhiêu người dân Việt Nam. Và tết trung thu, cái tết thiếu nhi thân thương ấy đã trở thành những hồi ức không thể nào quên của những ai đã đi qua những đêm say sưa trong ánh đèn ông sao và nhảy múa dưới ánh trăng rằm sáng rỡ.
Dù đã được nghiên cứu nhưng vẫn chưa có phân tích nào chỉ ra được nguồn gốc của ngày tết dân gian này. Tết trung thu có thể bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước Việt Nam, hình ảnh tết trung thu đã từng được tìm thấy trên trống đồng Ngọc Lũ xa xưa. Song cũng có thể là dân ta tiếp nhận từ nền văn hóa Trung Quốc. Người dân Việt Nam thường biết đến nguồn gốc tết trung thu qua các câu chuyện truyền thuyết về chú Cuội, Hằng Nga và cung trăng của dân gian. Trong “Việt Nam phong tục”, Phan Kế Bính cho rằng tục bày cỗ có từ thời vua Đường Hoàng Minh như một nghi thức ăn mừng sinh nhật vua, tục rước đèn tự do là có từ thời nhà Tống, tục hát trống quân là từ thời Quang Trung Nguyễn Huệ.
Tết trung thu, hay còn gọi là tết thiếu nhi, tết trông trăng, tết hoa đăng, được tổ chức vào ngày rằm tháng tám hằng năm. Tết trung thu được tổ chức ở nhiều quốc gia châu Á như Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Ở Đài Loan, Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc, ngày tết này còn một ngày nghỉ lễ quốc gia. Tết trung thu được tổ chức vào một ngày rằm nhưng việc chuẩn bị được thực hiện từ trước đó và được nhiều người tham gia góp sức. Trước ngày tết, mọi người sẽ cùng làm đèn lồng, làm bánh trung thu, chuẩn bị mâm ngũ quả. Đến ngày tết thì cùng nhau xem múa lân, đi rước đèn dưới cung trăng, phá cỗ.
Đèn lồng, đèn trung thu thường được là bằng những vật liệu thông dụng như gỗ và giấy ni lông. Khung gỗ được tạo thành nhiều hình dáng khác nhau rồi được dán ni lông bóng màu sắc lên để trông đẹp mắt. Nào là ông sao, con gà, con cá. Ngày nay, người ta còn sản xuất những lồng đèn bằng điện với nhiều hình thù khác nhau và đẹp mắt hơn. Tuy nhiên, nó không lưu giữ được những giá trị dân gian như lồng đèn thủ công và không tạo được sự gắn kết như khi mọi người cùng làm lồng đèn. Lễ rước lồng đèn thường được duy trì ở các làng xóm vùng nông thôn, nơi mọi người sống gần gũi với nhau, còn đối với những vùng đô thị thì ít thấy hơn. Một hoạt động không thể thiếu của ngày tết này chính là múa lân, hay còn gọi là múa sư tử. Trước ngày tết chính, những đoàn múa sư tử đã biểu diễn trên dọc các con đường rồi, nhưng nhộn nhịp nhất và thu hút nhiều người nhất vẫn là đêm mười lăm mười sáu. Trung thu, cũng như bao ngày tết khác, cũng có một mâm cỗ, thường có trung tâm là con chó làm bằng tép bưởi, xung quanh bày thêm hoa quả và bánh kẹo. Bên cạnh đó, người dân Việt Nam có tục ăn bánh vào ngày này, gọi là bánh trung thu. Đó có thể là bánh nướng truyền thống, bánh nướng hình con lợn, bánh dẻo,… Ngày tết trung thu còn là ngày xem trăng, người ta ngắm trăng để tiên đoán mùa màng và quốc gia. Nếu trăng vàng thì trúng mùa tơ tằm, trăng xanh hay lục thì thiên tai, trăng cam thì quốc gia thái bình thịnh trị.
Tết trung thu mang nhiều ý nghĩa hơn cái tên tết thiếu nhi của nó. Đó là ngày lễ để trẻ em được tung tăng vui chơi, gặp gỡ nhau, cùng nhau phá cỗ rước đèn, tận hưởng ngày lễ dành riêng cho mình. Hơn thế, đây còn là dịp mọi người quây quần nói chuyện cùng nhau, là ngày để mọi người gần gũi nhau hơn. Ngày tết trung thu này cũng là ngày lễ của dân tộc, là nét văn hóa dân gian mang hơi thở truyền thống đậm đà, thể hiện sâu sắc bản sắc văn hóa dân tộc, là một nét đặc trưng của đất nước. Cho đến bây giờ, người dân vẫn duy trì tổ chức ngày tết này nhưng ít nhiều đã làm hao hụt đi những giá trị truyền thống như không còn những đoàn rước đèn rộn rã, đèn lồng truyền thống bị những loại đèn hiện đại khác thay thế,… Vì vậy, ta không chỉ duy trì ngày tết mà còn cần bảo tồn những giá trị vốn có của nó, cần giữ cho ngày tết đúng với ý nghĩa ban đầu để mang lại một ngày tết vẹn tròn cho lứa tuổi thơ.
“Trung thu liên hoan trăng sáng ngập đường làngDưới ánh trăng vàng em cất tiếng hát vang ”
Một câu hát quen thuộc, một câu hát nữa của tuổi thơ gọi bao tâm trí về với những ngày trung thu đẹp đẽ. Cứ như thế, dư vị trung thu đã đi qua bao lớp người, đã đi qua bao lứa tuổi thơ và vẫn mãi in dấu với những đêm vui chơi bên mâm cỗ, trong tiếng trống linh đình dưới ánh trăng vàng dịu êm.
Thuyết minh về Tết Trung thu – Mẫu 5
Hằng năm, tới ngày rằm tháng tám âm lịch, trẻ con khắp nước ta được người lớn cho rước đèn, ăn bánh nướng, bánh dẻo và múa lân thật là vui. Ngày ấy chính là tết Trung thu – cái tết gắn bó với người Việt Nam, trẻ em Việt Nam đã từ lâu.
Tết Trung thu rất gắn bó với người Việt Nam ta nhưng chắc ít ai biết rằng tết Trung thu có nguồn gốc từ đâu. Từ thế kỉ VIII (713 — 755), thời Đường Minh Hoàng đã có tục vui tết Trung thu. Sách xưa chép rằng: nhân một rằm tháng tám, khi cùng các con ngắm trăng tròn, vua Đường ao ước được lên trên trời một lần. Tết Trung thu rất gắn bó với người Việt Nam ta nhưng chắc ít ai biết rằng tết Trung thu có nguồn gốc từ đâu. Từ thế kỉ VIII (713 — 755), thời Đường Minh Hoàng đã có tục vui tết Trung thu. Sách xưa chép rằng: nhân một rằm tháng tám, khi cùng các con ngắm trăng tròn, vua Đường ao ước được lên trên trời một lần. Gạo rang rồi xay hoặc giả nhỏ mịn, nhào với nước đường ngan ngát mùi hoa bưởi. Tất cả các công đoạn trên đều do tay người thợ “nghệ” đảm nhiệm. Tết Trung thu đã trở thành tập tục văn hóa của người Việt Nam trong mỗi làng, một xóm, mỗi phường. Nó rất gắn bó với mỗi người Việt Nam ta. Chúng ta cần giữ gìn tập tục văn hóa này sao cho cả thế giới đều biết đến để Tết Trung thu ngày càng rực rỡ, không bị mai một theo thời gian. Bột được cho vào khuôn. Dỡ khuôn là chiếc bánh hiện rõ những hoa văn chìm nổi của bông hồng nở tám cánh hoặc mười cánh. Khuôn mặt áo bánh dẻo, ngọt đậm, thơm dịu. Phần nhân bánh nhất thiết do thợ cả quản xuyến với những khâu quan trọng: rang và ủ vừng, xử lí mứt bí khẩu, mứt sen, hạnh nhân, hạt dưa, ướp nhân, tạo hương cho nhân… Mãi về sau này người ta mới phá cách cho lạp xưởng vào. Nhân bánh được cải tiến với nhiều sáng kiến. Bánh nướng và bánh dẻo cũng có hai loại nhân chay bằng đậu xanh mịn, hạt sen… ăn rất dịu và thoảng hương đồng gió nội. Chúng mang hương vị, thanh sắc Việt Nam thanh cao, thanh nhã.
Tết Trung thu còn có rất nhiều trò chơi không chỉ cho trẻ em, mà còn làm cho cả người lớn vui vẻ và thoải mái hơn sau những ngày làm việc vất vả. Trò múa sư tử, múa lân không thể thiếu được trong những ngày này. Trước đây, tại các tư gia thường treo giải thưởng bằng tiền. Sau một hồi múa, lân nhảy lên lấy thưởng. Thật là vui nhộn, náo nhiệt. Người ta bày cỗ với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy múa ca hát theo nhịp trống. Những cuộc rước đèn với bao loại đèn đặc sắc, rực sáng trong đêm như để các em vui chơi với chị Hằng: đèn ông sao, đèn lồng, đèn con thỏ, đèn kéo quân rực sáng làm mất đi cái ảm đạm, tăm tối của ban đêm.
Tết Trung thu đã trở thành tập tục văn hóa của người Việt Nam trong mỗi làng, một xóm, mỗi phường. Nó rất gắn bó với mỗi người Việt Nam ta. Chúng ta cần giữ gìn tập tục văn hóa này sao cho cả thế giới đều biết đến để Tết Trung thu ngày càng rực rỡ, không bị mai một theo thời gian.
Thuyết minh về Tết Trung thu – Mẫu 6
Hằng năm, cứ tới tháng tám âm lịch,người Việt Nam lại tất bật chuẩn bị cho ngày Tết Trung thu – rằm tháng tám,thời điểm mà mặt trăng tròn và sáng nhất trong năm. Theo quan niệm của người Việt Nam ta, Tết Trung thu là ngày hội lớn của thiếu nhi. Ngày đó có tiếng trống ếch rộn ràng, những điệu múa lân thú vị và ánh sáng lấp lánh của đèn lồng dưới vòm trời cao trong vắt cùng với trăng thanh, gió mát.
Tết Trung thu có từ bao giờ, có lẽ là không ai biết nữa, chỉ biết rằng từ bao đời nay, Trung thu đã được tổ chức ở Việt Nam như một ngày hội dưới ánh trăng. Ngày đó cả gia đình cùng tề tựu, quây quần phá cỗ, ngắm trăng. Nhìn vầng trăng tròn vành vạnh, lại điểm thêm vài chỗ đen phớt xanh, người xưa đã tưởng tượng ra những câu chuyện về mặt trăng và làm cho nó trở thành truyền thuyết lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Ở Trung Quốc có nàng Hằng Nga phải xa chồng là Hậu Nghệ, bay lên cung trăng, rồi nàng trở thành tiên, không bao giờ chết nhưng phải sống trong cô đơn ở cung Quảng Hàn mênh mông, lạnh lẽo. Rồi còn Thỏ Ngọc đã hi sinh thân mình, nhảy vào đám lửa để cứu sống ông lão hành khất nên khi chết được lên cung trăng. Còn ở Việt Nam cũng có câu chuyện của mình về Cuội – một chú bé nghèo phải đi chăn trâu cho địa chủ, rồi chuyện về thuốc trường sinh bất tử trong “Sự tích cung trăng” nữa…
Nói tới Tết Trung thu, ngoài những câu chuyện về trăng, ta không thể không nhắc tới mâm cỗ Trung thu, nơi cả gia đình vui vầy; tận hưởng không khí của mùa thu trong lành dưới ánh trăng vàng rực rỡ. Mâm cỗ đêm Trung thu có các loại bánh Trung thu cổ truyền của dân tộc. Chúng có thể có nhiều loại : bánh hình tròn, hình vuông, hình con cá, con lợn,… nhưng chỉ có hai loại chủ yếu là bánh dẻo và bánh nướng. Khác với bánh Trung thu của Trung Quốc là ngọt sắc, béo ngậy và thơm vị thảo mộc, bánh Trung thu của Việt Nam cũng ngọt nhưng ít ngậy hơn. Nhân bánh nướng thì thơm mùi rượu, mùi lá chanh, vỏ quýt, vỏ bưởi, còn bánh dẻo thì lại thơm mùi hương hoa bưởi. Hương thơm đó dậy mùi ngay từ khi cắn miếng đầu tiên vào lớp vỏ bánh làm từ gạo nếp. Ngày nay, nhiều nhà sản xuất đã có cả bánh Trung thu có vị sữa, khoai môn, socola… nhưng vẫn không sánh được so với vị bánh truyền thống. Ngoài bánh Trung thu, mâm cỗ của người – Việt Nam cũng không thể thiếu được những đặc sản của mùa thu : hồng, cốm, bưởi, chuối,… Cốm được làm từ gạo nếp,rang lên rồi giã dập. Gốm được làm ở nhiều nơi nhưng nổi tiếng nhất vẫn là cốm làng Vòng ở Hà Nội. cốm xanh có thể ăn với hồng chín đỏ hay chuối trứng cuốc chín vàng, thật hài hoà về hương vị và màu sắc,toát lên sự thanh đạm của cốm, ngọt sắc của chuối, của hồng.
Bên cạnh mâm cỗ Trung thu, ta phải nhắc tới những trò chơi của trẻ nhỏ mà ít ai có thể quên được. Hằng năm, cứ vào dịp Tết Trung thu, người ta lại nghĩ ngay điệu múa sư tử vui vẻ trong tiếng trống rộn ràng. Truyện kể rằng đã từ lâu, vào đêm rằm Trung thu nọ, có một con sư tử ngồi bên dòng suối ngắm trăng và khi đưa tay định với tới mảnh trăng thì trăng biến mất. Sư tử tức giận liền đi phá làng bản. Lúc đầu, một chàng tiều phu đi qua, đánh đuổi sư tử, cứu giúp dân làng. Từ đó, người ta thường tổ chức múa sư tử vào dịp Trung thu để tỏ lòng biết ơn đối với chàng tiều phu nọ. Ngoài múa sư tử, trẻ em còn có rất nhiều thứ đồ chơi khác nữa : nào là những chiếc mặt nạ vui nhộn, những chiếc đèn lồng ông sao,đèn cá chép sáng lấp lánh trong đêm, những chiếc trống ếch nho nhỏ mà thật vui…
Trung thu còn nhiều điều, nhiều điều khác nữa nhưng chúng ta cũng chỉ biết rằng Trung thu là ngày tết của thiếu nhi và ngày nay chúng ta cũng cố gắng gìn giữ ngày tết ấy. Sao cho nó không bị mai một, không bị pha tạp. Nghĩ đến Tết Trung thu, lòng chúng ta luôn thấy ấm áp,vui vui.
Thuyết minh về Tết Trung thu – Mẫu 7
Tết Trung thu là một trong bốn Tết lớn của người Việt Nam (Tết Nguyên đán, Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ, Tết Trung thu). Trung thu nghĩa là giữa mùa thu, Tết Trung thu như tên gọi của nó đến với chúng ta đúng vào ngày rằm (ngày 15) tháng Tám âm lịch hàng năm. Ngày tết này ở Việt Nam được xem là Tết Thiếu nhi bởi trẻ em sẽ được chăm sóc chu đáo, được tổ chức vui chơi, ca hát và được tặng nhiều đồ chơi, lồng đèn, bánh kẹo…
Tết Trung thu không biết có tự bao giờ, chưa có ai khẳng định và nói rõ về nguồn gốc của ngày lễ này. Nhiều người cho rằng đây là nét văn hóa du nhập từ Trung Quốc trong thời gian Việt Nam bị phương Bắc đô hộ, nhưng cũng có nhiều người khác cho rằng Tết Trung thu có nguồn gốc từ nền văn minh lúa nước của Việt Nam. Hiện tại, có nhiều truyền thuyết về nguồn gốc ngày Tết này, trong đó có 03 truyền thuyết chính được người ta biết đến nhiều nhất, đó là truyền thuyết Hằng Nga-Hậu Nghệ, vua Đường Minh Hoàng lên cung trăng và sự tích Chú Cuội cây đa của Việt Nam.
Hằng Nga-Hậu Nghệ:Tương truyền, vào thời xa xưa, trên bầu trời xuất hiện 10 ông mặt trời, mặt đất bị đốt nóng, cây cỏ khô héo, sông hồ khô cạn. Hậu Nghệ dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời, lập nên thần công cái thế, được nhiều người tôn kính và xin theo học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm tà bất chính. Ít lâu sau, Hậu Nghệ cưới được người vợ vô cùng xinh đẹp, tốt bụng tên là Hằng Nga. Hàng ngày, ngoài việc dạy học, Hậu Nghệ luôn bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi trai tài gái sắc này. Một hôm, tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương, Hậu Nghệ được bà ban cho thuốc Trường sinh bất tử, uống vào sẽ được bay lên trời thành tiên. Không nỡ rời xa vợ, Hậu Nghệ không uống mà đưa thuốc cho Hằng Nga cất giữ, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy. Ba ngày sau, trong khi Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông giả vờ bệnh, xin ở lại, đã đột nhập hậu viện ép Hằng Nga đưa thuốc bất tử. Biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông nên Hằng Nga lấy thuốc ra và bỏ vào miệng uống, sau đó bay lên trời. Nhưng do quá thương nhớ chồng nên Hằng Nga chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần nhân gian nhất và trở thành tiên. Mọi người hay tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đã bày hương án, hoa quả dưới ánh trăng cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào Tết Trung thu được truyền đi trong dân gian.
Vua Đường Minh Hoàng lên cung trăng: Chuyện xưa kể rằng, vào đêm rằm tháng tám âm lịch, gió mát, trăng tròn thật đẹp, trong lúc dạo chơi vườn ngự uyển, vua Đường Minh Hoàng (713 – 741 Tây lịch) gặp đạo sĩ La Công Viễn (còn được gọi là Diệp Pháp Thiện). Đạo sĩ có phép tiên đưa nhà vua lên cung trăng và dạo chơi nơi cung Quảng. Cảnh trí nơi đây vô cùng xinh đẹp! Nhà vua mải lo thưởng thức tiên cảnh quên cả trời gần sáng. Đạo phải nhắc, vua mới ra về nhưng lòng còn vấn vương, luyến tiếc. Về hoàng cung, vua đã cho chế ra khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng tám lại ra lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng trong khi nhà vua cùng Dương Quý Phi uống rượu dưới trăng, ngắm đoàn cung nữ múa hát để kỷ niệm lần du nguyệt điện kỳ diệu của mình. Từ đó, việc tổ chức rước đèn và bày tiệc vào ngày rằm tháng tám đã trở thành phong tục dân gian.
Sự tích Chú Cuội: Ngày xưa, ở vùng nọ có một tiều phu tên Cuội. Một hôm, Cuội vào rừng và tình cờ phát hiện một cây đa quý, có thể “cải tử hoàn sinh”. Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội đã cứu sông rất nhiều người, tiếng đồn lan truyền khắp nơi, bọn xấu sinh lòng ghen ghét. Hôm nọ, lợi dụng lúc Cuội đi vắng, bọn chúng đến nhà giết vợ Cuội và mổ bụng lấy ruột vứt bỏ. Cuội về, lấy đất nặn ruột, dùng lá cây cứu sống vợ. Do bộ ruột được làm từ đất, nên vợ Cuội thay đổi tính tình, trí nhớ giảm sút. Ngày kia, khi ở nhà một mình, người vợ đã dùng nước bẩn tưới lên cây. Cây đa tự nhiên bật gốc, từ từ bay lên trời. Vừa lúc đó, Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng chụp lấy rễ cây để níu lại, nhưng cây vẫn cứ bay lên và kéo cả Cuội lên cung trăng. Từ đó, Cuội ở lại cung trăng với cây đa quý của mình. Nhìn lên mặt trăng vào những đêm rằm, người ta thấy có một vệt đen giống hình cây cổ thụ, có người ngồi dưới gốc, người ta gọi đó là Chú Cuội ngồi gốc cây đa. Theo truyền thuyết, mỗi năm cây đa chỉ rụng một lá vào đêm trăng sáng. Vì thế, vào đêm rằm tháng tám là đêm trăng sáng nhất, người ta thường bày hương án, hoa quả, mắt hướng về phía mặt trăng để cầu nguyện mong nhận được phương thuốc tuyệt vời từ chiếc lá đa của chú Cuội. Từ đó, tục ngắm trăng và cúng trăng vào đêm rằm tháng tám đã trở thành phong tục của người Việt Nam.
Theo các nhà khảo cổ học, Tết Trung thu ở Việt Nam đã có từ thời xa xưa, những hình ảnh đó đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Còn theo văn bia Chùa Đọi năm 1121, từ đời nhà Lý, Tết Trung thu đã được tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Từ đó cho thấy, có thể Tết Trung thu được bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng của Việt Nam và vùng đồng bằng Nam Trung Hoa.
Theo phong tục người Việt, cha mẹ bày cỗ cho các con mừng Trung thu, làm lồng đèn thắp bằng nến như đèn giấy xếp, đèn ông sao, đèn cá chép… để treo quanh nhà và cho các con đi rước đèn. Đầu hôm, trẻ con tụ tập rước đèn quanh thôn xóm và ca hát, nhảy múa, vui chơi, người lớn thì lo chuẩn bị mâm cỗ. Cỗ mừng Trung thu gồm bánh in hình mặt trăng, bánh trung thu, kẹo và các thứ hoa quả khác. Đến khi trăng lên đỉnh đầu là lúc phá cỗ. Mọi người trong gia đình quây quần bên nhau, vừa uống trà, thưởng thức bánh, vừa ngắm trăng và chuyện trò, tâm sự. Đây là dịp để gia đình đoàn tụ, để con cái thấy và hiểu được sự chăm sóc, yêu thương của cha mẹ đối với mình và vì thế tình yêu thương gia đình ngày càng sâu đậm hơn. Cũng trong dịp này, người ta thường mua bánh trung thu, trà rượu để cúng tổ tiên và biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, họ hàng, bạn bè để tỏ lòng hiếu thảo, biết ơn ông bà, cha mẹ, thầy cô và thể hiện sự yêu thương, quan tâm chăm sóc lẫn nhau.
Trung thu cũng là dịp nhàn rỗi của nghề nông. Lúc này lúa vụ mùa đã làm đòng, chỉ chờ đơm bông, mẩy hạt. Bằng kinh nghiệm theo dõi chu kỳ của thiên nhiên, người xưa trông trăng đêm Trung thu để dự đoán thời cuộc, mùa vụ: trăng màu vàng trúng mùa tơ tằm, trăng xanh lục báo hiệu thiên tai, trăng màu cam đất nước thái bình hay “trăng quầng trời hạn, trăng tán trời mưa”, “tỏ trăng mười bốn được tằm, đục trăng hôm rằm thì được lúa chiêm”. Nhưng dù là dấu hiệu “điềm lành” hay “điềm dữ”, thì con người vẫn luôn say đắm, đồng hành cùng trăng quanh năm suốt tháng, người cùng hòa hợp với trời đất, thiên nhiên để sinh tồn và phát triển.
Đêm Trung thu, trẻ em phá cỗ, trông trăng, mơ màng về hình bóng Chú Cuội dưới gốc cây đa nơi cung Hằng dịu dàng, kỳ ảo. Tiếng hát trong trẻo, ngân vang của trẻ con cùng ánh đèn mờ ảo của những chiếc lồng đèn hòa quyện với hương vị ngọt ngào của các loại bánh trung thu, thấm đẫm vào ánh trăng rằm vằng vặc, rong ruổi trong làn gió nhẹ đêm thu là thế giới kỳ ảo, muôn màu, hấp dẫn đối với trẻ thơ. Thế giới ấy không chỉ lay động, xao xuyến tâm hồn trẻ thơ mà còn quyến rũ, lôi cuốn người lớn cùng hòa vào cuộc chơi. Hình ảnh những người cha ngồi cặm cụi vót tre làm lồng đèn cho con, những người mẹ lễ mễ bưng mâm bánh, trái cây chuẩn bị bày cỗ, bên cạnh những đứa trẻ chơi trò nhảy dây, bịt mắt bắt dê chờ trăng lên… đã in sâu vào tâm hồn, là ký ức khó phai của mỗi con người Việt Nam. Và khi lớn lên, dù có làm gì, ở đâu, thì vào dịp Tết Trung thu, mỗi người cũng sẽ cố gắng sắp xếp công việc để trở về quê hương, sum họp với gia đình, được quây quần bên mâm cỗ đoàn viên, cùng uống trà, ăn bánh, ngắm trăng, trò chuyện và ôn lại những kỷ niệm đẹp thời thơ ấu. Đó là những nét đẹp kinh điển, độc đáo trong nền văn hóa truyền thống của người Việt Nam.
Thuyết minh về Tết Trung thu – Mẫu 8
Hằng năm Việt Nam ta có rất nhiều ngày lễ tết như: Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ, Tết Nguyên Tiêu,…mà trong số đó ta không thể không kể đến Tết Trung Thu. Tết về mang theo không khí náo nức vui tươi trong những câu hát rước đèn: “Tùng rinh rinh…Tùng tùng tùng …rinh rinh…”, mang theo cái ấm áp của sự sum vầy, mang theo niềm tự hào về văn hóa dân tộc, vẻ đẹp của đất nước.
Tết Trung Thu diễn ra vào ngày rằm tháng 8 (theo âm lịch) hàng năm, còn được gọi là Tết Thiếu Nhi hay Tết Trông Trăng, Tết Hoa Đăng. Tết có ở nhiều nước Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan,… trong đó có Việt Nam.
Về nguồn gốc của Tết Trung Thu còn chưa thực rõ ràng. Bà kể cho cháu nghe, mẹ kể cho con nghe mỗi đêm rằm tháng 8 về câu chuyện: “Chú Cuội cung trăng”, hay về Hằng Nga và Hậu Nghệ, về vua Đường Minh Hoàng lên cung trăng. Nguồn gốc của Tết Trung Thu lại lẫn vào màn sương mờ của sự tích, truyền thuyết, huyền thoại, khiến các em nhỏ càng háo hức trông đợi mỗi dịp tết về. Nhiều nhà khoa học lại cho rằng: những hình ảnh đầu tiên của Tết Trung Thu xuất hiện trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Và người ta tin rằng Tết Trung Thu kết tinh từ hai nền văn minh lúa nước Trung Hoa và văn minh đồng bằng châu thổ sông Hồng với hình thức đầu tiên là mừng cho mùa màng bội thu.Nhưng dẫu bắt nguồn từ đâu, và có từ bao giờ thì tết Trung Thu từ lâu đã đi sâu vào tiềm thức, trong hoạt động sinh hoạt văn hóa văn nghệ của người Việt Nam xưa và nay, trở thành một phong tục đẹp đẽ, đáng tự hào của dân tộc ta.
Tết Trung Thu sở dĩ đáng được mong chờ bởi nó có nhiều hoạt động vô cùng hấp dẫn. Nếu như trước tết Nguyên Đán người ta rậm rịch lên lửa gói bánh, luộc bánh chưng, giã bánh giầy thì trước mấy ngày đến Tết Trung Thu, đi trên khắp nẻo đường phố, ngõ xóm đều có thể nghe nức mùi bột bánh nướng bánh dẻo chuẩn bị cho Trung Thu. Người ta nô nức làm bánh, mua bánh, tặng bánh cho nhau. Những chiếc bánh vuông vắn, ngọt vị mứt, bùi bùi vị thịt và thơm mùi lá chanh khiến cho cái Tết càng trở nên ngọt ngào, ấm áp. Bên cạnh bánh trung thu, món quà người lớn thường tặng cho trẻ em là đồ chơi. Chúng thường là những mặt nạ có hình thù ngộ nghĩnh hay những chiếc đèn lồng, đèn kéo quân sáng rực, xinh xắn. Ngoài làm bánh, tặng quà cho nhau, thì nhà nhà người người đều làm đèn lồng để treo trước cửa nhà mình và chỉ cách ngày rằm khoảng 2 tuần thôi mà chạy dọc các đường phố đều có treo đèn lồng sáng rực. Trên các đường phố có nhiều em nhỏ đến từng ngôi nhà, gõ cửa múa lân hay nhảy múa, biểu diễn văn nghệ để xin những đồng tiền lấy may hay những cái bánh cái kẹo ngọt ngào.Không khí trước Tết xôn xao náo nức nhắc nhở mọi người ai ở phương xa cũng trở về gia đình để đón cái Tết Trung Thu thật ấm áp. Trong ngày Tết Trung Thu các hoạt động lại càng sôi nổi hơn thế. Trăng tròn vành vạnh lên cao, treo lơ lửng giữa đỉnh trời, tỏa ánh sáng dịu dàng mát rượi chan hòa khắp muôn nơi. Và dưới ánh trăng, người ta bày cỗ, phá cỗ linh đình. Xung quanh mâm cỗ các em nhỏ nắm tay nhau nhảy múa hát ca với những chiếc đèn lồng trong tay “ Chiếc đèn ông sao sao năm cánh tươi màu, cán đây rất dài , cán cao qua đầu…”. Và được mong chờ nhất là màn múa lân. Một người đội mũ sư tử và nhiều người đi theo sau được hóa trang một cách hài hước nhảy theo tiếng trống : “Tùng tùng tùng cắc tùng tùng tùng tùng…”. Bao giờ cũng vậy, màn múa lân luôn mang đến niềm hân hoan cho những em nhỏ và niềm vui cho mọi người.
Tết Trung Thu có rất nhiều ý nghĩa. Đó không chỉ là ngày đoàn viên, hội ngộ, ngày mà mọi người được quây quần sum vầy bên nhau bên mâm ngũ quả, thưởng thức những chiếc bánh trung thu; ngày trẻ em được cùng nhau nô đùa thỏa thích được ăn bánh kẹo, được nhận nhiều đồ chơi mà còn là một nét vẽ không thể thiếu trong bức tranh văn hóa Việt. Tết Trung Thu còn đi vào nhiều câu ca câu thơ từ cổ chí kim như Đỗ Phủ với bài Trung thu:
Thu cảnh kim tiêu bánThiên cao nguyệt bội minhNam lâu thùy yến hưởngTy trúc tấu thanh thanh.
Còn Tản Đà: “ Cứ mỗi năm rằm tháng tám đến” lại “ Tựa nhau trông xuống thế gian cười”. Thu đi vào trong những câu hát nằm lòng với mỗi thiếu nhi:
Tết Trung Thu rước đèn đi chơiEm rước đèn đi khắp phố phườngLòng vui sướng với đèn trong tayEm múa ca trong ánh trăng rằmĐèn ông sao với đèn cá chépĐèn thiên nga với đèn bươm bướmEm rước đèn này đến cung trăngĐèn xanh lơ với đèn tím tímĐèn xanh lam với đèn trắng trắngTrong ánh đèn rực rỡ muôn màu…
Cứ như thế, mỗi mùa Trung Thu đến lại để lại trong lòng người những dư vị không thể nào phai.
Xã hội càng phát triển, con người càng bận rộn chạy theo những giá trị vật chất mà đôi khi lãng quên những giá trị tinh thần. Bởi vậy, Tết đến là dịp quý giá để con người xích lại gần nhau, trao cho nhau tình cảm. Và giữ được vẻ hân hoan, náo nức của cái Tết cũng chính là giữ được màu tươi trong bản sắc văn hóa của dân tộc.
….
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!