Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tản Đà – Reader
Tản Đà là một trong những nhà thơ lớn ở những năm đầu thế kỷ XX. Ông có những đóng góp nhất định trong sự nghiệp văn học của nước nhà. Ông được ví như là một cầu nối giữa hai thế kỷ và là nhân tố tiêu biểu đặt nền móng cho sự phát triển của dòng thơ mới.
- Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Hàn Mặc Tử
- Tiểu sử và cuộc đời sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Tuân
- Tiểu sử nhà văn Kim Lân và sự nghiệp sáng tác văn học
1. Tiểu sử
Tản Đà (19 tháng 5 năm 1889 – 7 tháng 6 năm 1939) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông.
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 19 tháng 5 năm 1889 (20 tháng 4 năm Kỷ Sửu, Thành Thái nguyên niên), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội), nguyên quán ở làng Lủ tức làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội).
Ông thuộc dòng dõi quyền quý, có truyền thống khoa bảng. Tổ tiên ông xưa kia có nhiều đời làm quan dưới triều Lê. Sau Gia Long lên ngôi, dòng họ này thề sẽ không đi thi, không làm quan với tân triều. Đến thời cha ông là Nguyễn Danh Kế, do hoàn cảnh gia đình cực khổ, lại phải nuôi mẹ già, đành lỗi ước với tổ tiên. Nguyễn Danh Kế thi đỗ cử nhân, làm quan cho triều Nguyễn đến chức Ngự sử trong Kinh, giữ việc án lý, nổi tiếng là người có tài văn án trong triều. Ông Kế vốn là người phong lưu tài tử, thường lui tới chốn bình khang và quen với bà Lưu Thị Hiền ở phố.
Bà Lưu Thị Hiền có nghệ danh Nhữ Thị Nhiêm, là một đào hát tài sắc ở Hàng Thao – Nam Định, bà lấy lẽ ông Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường (Nam Định). Bà là người hát hay, có tài làm thơ chữ Nôm. Tản Đà là con trai út của cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân này.
Trong những người anh em còn lại, có người anh ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích, là người có nhiều những ảnh hưởng to lớn tới cuộc đời sau này của Tản Đà. Ông Tích sinh năm 1864, nối nghiệp cha đi thi đỗ Phó bảng và ra làm quan. Ông là người thanh liêm chính trực, nên đường hoạn lộ cũng không yên ổn, sau làm ở cục Tu thư, rồi Hiệu trưởng trường Tân Quy, Đốc học Vĩnh Yên. Tản Đà từ nhỏ sống với ông, phải nhiều lần di chuyển tới những nơi ông Tích được bổ nhiệm: Yên Mô – Ninh Bình, Vụ Bản – Nam Định, Quảng Oai – Sơn Tây, Vĩnh Tường – Vĩnh Yên.
2. Phong cách sáng tác
Từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam không có một nhà thơ nào được nhiều độc giả yêu mến như Tản Đà. Sau khi thơ mới trở nên phổ biến ở Việt Nam thì cái tên Tản Đà vẫn được yêu thích, trong cuốn Thi nhân Việt Nam – là một trong những cuốn bình luận về thơ mới rất giá trị, bài tưởng niệm Tản Đà được đặt những trang đầu tiên.
Trong sự nghiệp cầm bút của mình, Tản Đà viết được rất nhiều thể loại cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ của ông khiến cho độc giả như được rơi vào cõi mộng, chán ngán đời thực và cũng không thiếu những bài thơ mang tính chiêm biếm ngầm hiện thực.
Thơ của Tản Đà được đánh giá là phóng khoáng, cá tính mang đậm phong cách cá nhân. Tản Đà từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Tờ “An Nam tạp chí” tuy tổng cộng chỉ có 48 số, lại hoạt động thất thường, thiếu chuyên nghiệp nhưng được coi là một trong những tờ đầu tiên có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của văn học Việt Nam thời cận đại theo khuynh hướng hiện thực.
Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát và được biết đến là một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất.
Tiêu biểu cho phong cách thơ của Tản Đà có bài thơ Hầu trời. Tác phẩm được in trong tập thơ “Còn chơi” xuất bản năm 1921. Bài thơ mang nét cá tính của tác giả, mạch thơ được đi theo một câu chuyện cụ thể, hấp dẫn và thuyết phục được bạn đọc. Cái ngông độc đáo của Tản Đà cũng được thể hiện, Hầu trời giúp Tản Đà khẳng định được quan niệm cũng như tài năng của mình.
3. Nhận định
Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ suý, trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng văn làng báo xứ này, ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà? – Nguyễn Tuân
Chính cái sầu trong thơ Tản Đà là đầu mối quỷ thuật chính yếu để dụ người ta. – Xuân Diệu
Trong cái trang thi sĩ của cuốn Việt Nam văn học sử sau này, dầu sao mặc lòng, ông Tản Đà là một người đứng đầu của thời đại này. – Ngô Tất Tố
Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa. – Hoài Thanh
Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi. – Xuân Diệu
Hy vọng bài viết này sẽ giúp bạn đọc có thêm nhiều hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của Tản Đà.
Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!