Thôi-Hiệu Và Bài Thơ Hoàng-Hạc Lâu — Tài-Liệu Viện Trầu Cau

Thôi-Hiệu Và Bài Thơ Hoàng-Hạc Lâu

Hoang Hac Lau I. Hoàng-Hạc Lâu (黄鹤楼): (hay Lầu Hoàng-Hạc, Lầu Hạc-Vàng) là một trong những kiến-trúc cổ nổi-tiếng của Trung-Hoa. Ngày nay, chính-quyền Trung-Hoa xếp Hoàng-Hạc Lâu không những là một địa-điểm văn-hóa, lịch-sử mà còn là một nơi thu-hút khách du-lịch trong và ngoài nước.

Hoàng-Hạc Lâu thoạt đầu được xây-dựng dọc theo sông Dương-Tử, trên một vùng đá sỏi gọi là Hoàng-Hạc ở núi Xà-Sơn, thành-phố Vũ-Hán, huyện Vũ-Xương, tỉnh Hồ-Bắc vào năm Hoàng-Vũ thứ 2 đời nhà Ngô thời Tam-Quốc (năm 223). (Bà Triệu của ta sinh năm Bính-Ngọ (226). Đến nay, trải qua thời-gian dài gần 18 thế-kỷ, vì chính-biến, binh-loạn, Hoàng-Hạc Lâu đã bị hủy-hoại tất cả 12 lần. Chính-quyền ra-công tu-sửa cho cao hơn. Năm 1920 Hoàng-Hạc Lâu chỉ có 3 tầng. Đến năm 2006 Hoàng-Hạc Lâu lên đến 5 tầng (xem ảnh). Ngày nay Hoàng-Hac Lâu được đánh-giá là một trong bốn đại danh-tháp cổ-xưa còn lại của Trung-Hoa.

Hoàng-Hạc Lâu bắt nguồn từ truyền-thuyết Tiên-Ông Phí-Văn-Vi, thường cưỡi hạc vàng ngao-du đó dây. Một hôm, tiên cưỡi hạc bay ngang qua Vũ-Hán và dừng lại trên Đồi Rắn để ngắm cảnh, một bên là Trường-Giang và bên kia là Ngũ-Hồ. Sau này, người ta đã từ nơi ấy xây lên một ngọn tháp, đặt tên là Hoàng-Hạc Lâu.

Ngày xưa Hoàng-Hạc Lâu là nơi gặp-gỡ của các thi, văn hữu. hay tao-nhân mặc-khách bầu rượu túi thơ. Người ta đến đó vừa để thưởng-ngoạn phong-cảnh hữu-tình, vừa để uống rượu làm thơ, hoặc để ghi lại biết bao tâm-sự mặn-nồng.

Binh-biến đã hủy-hoại các kiến-trúc Hoàng Hạc Lâu. Ngôi lầu cuối-cùng có tên Thanh-Lâu xây năm 1868 và bị hủy-hoại năm 1884. Năm 1957 khi ngôi cầu đầu-tiên vượt sông Dương-Tử được xây-cất, Hoàng-Hạc Lâu được di-dời cách vị-trí cũ 1 km.

Hoàng-Hạc Lâu được tái-thiết năm 1981 bằng vật-liệu hiện-đại, có cả cầu thang máy, và dĩ-nhiên, chỗ vệ-sinh cũng sạch-sẽ, khang-trang, rộng-lớn hơn cho du-khách. Hoàng-Hạc Lâu “mới” khánh-thành năm 1985. Vì vậy, so với ngày xưa, Hoàng-Hạc Lâu mất vẻ “thiên-nhiên” đi nhiều. Cảnh mộc-mạc, lau cỏ hoang-sơ, núi-non trùng-điệp, mây bay giăng-mắc bớt đi nhiều. Nhìn ảnh Hoàng-Hac Lâu chụp năm 1920, và đặt giả-thuyết nếu ít nhất năm 40 tuổi trở lên Thôi-Hiệu mới đến nơi này và sáng-tác bài thơ Hoàng-Hạc Lâu (khoảng năm 740-745), khi ấy Hoàng-Hạc Lâu còn hoang-sơ, trùng-điệp thế nào. Hiện nay, Hoàng-Hạc Lâu thuộc Khu Hoàng-Hac Công-Viên là nơi thu-hút nhiều du-khách mỗi ngày.

II. Tiểu-Sử Thôi-Hiệu:

Thôi-Hiệu (崔顥) sinh năm 704, mất năm 754, thời Nhà Đường (618-907), đời vua Đường-Huyền-Tông tức Đường-Minh-Hoàng (Lý-Long-Cơ). Ông là người Biện-Châu (nay thuộc tỉnh Hà-Nam, Trung-Hoa), đỗ Tiến-Sĩ năm Khai-Nguyên thứ 11 (723), làm quan đến chức Tư-Huân Viên Ngoại-Lang.

Sách Ngữ-văn nói rằng: “Đương thời, Thôi-Hiệu rất nổi tiếng. Ngày nay thơ của ông chỉ còn lại hơn 40 bài, trong đó, Hoàng-Hạc Lâu được coi là một trong những bài thơ hay nhất thời Đường.

Tương-truyền rằng, Lý-Bạch (701- 762) khi ngao-du Hoàng-Hạc Lâu, thấy cảnh đẹp muốn đề thơ nhưng thấy thơ Thôi-Hiệu đã đề trên vách trước đó. Ông đọc xong, vứt bút đi và than rằng:

Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắcThôi-Hiệu đề thi tại thượng đầu

Hai câu thơ trên có nghĩa là: Thấy cảnh đẹp trước mắt mà không thể tả được, bởi vì Thôi-Hiệu đã đề thơ trên đầu rồi.

Xem như thế, ta đủ biết Lý-Bạch rất nể-vì và khâm-phục thi-tài của Thôi-Hiệu. Về tuổi-tác, Lý-Bạch hơn Thôi-Hiệu 3 tuổi. (Sẽ có bài riêng về Lý-Bạch).

III. Bài Thơ Hoàng-Hạc Lâu:

1. Tiếng Hán:

黃鶴樓

昔人已乘黃鶴去,此地空餘黃鶴樓。黃鶴一去不復返,白雲千載空悠悠。晴川歷歷漢陽樹,芳草萋萋鸚鵡洲。日暮鄉關何處是,煙波江上使人愁。

崔顥

2. Tiếng Hán-Việt:

Hoàng-Hạc Lâu

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,Bạch vân thiên tải không du du.Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.Nhật mộ hương quan hà xứ thị,Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Thôi Hiệu (704-754)

3. Nghĩa Tiếng Việt: Lầu Hoàng-Hạc

Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi mất rồi,Hạc vàng khi bay đi rồi, đã không quay trở lại nữaChỉ còn để lại lầu Hoàng-Hạc nơi đâyNgàn năm mây trắng bay lang-thang trên bầu trờiMặt sông lúc trời quang-đãng, phản-chiếu cây cối Hán-Dương rất rõ-ràngCây cỏ ở Anh-Vũ xanh-tươiChiều tối, tự hỏi quê-quán mình nơi đâu?Đầu sông khói tỏa lên, và có sóng gợn, làm cho lòng người buồn-bã thêm.

Đọc thêm:  XIX là thế kỷ bao nhiêu? Cách xác định các mốc thời gian - Time-daily

Chúng tôi nhân cơ-hội viết bài này để nói qua về Luật Thơ Đường. Lịch-sử cổ-đại Trung-Hoa cho thấy Nhà Đường không những là đỉnh-cao về văn-hóa, nghệ-thuật mà còn cả về kinh-tế, chính-trị nữa. Vào thời Nhà Đường, thơ văn phát-triển mạnh-mẽ. Luật Thơ Đường ra đời, mang một trật-tự và khí-thế mới cho thi-ca. Các sĩ-phu, quan-lại, thi-nhân, sĩ-tử…nếu muốn làm thơ, đều phải thuộc-lòng và áp-dụng Luật Thơ Đường. Thơ Đường gây một ảnh-hưởng lớn rộng chẳng những ở trong nước, mà còn ở nước- ngoài nữa, như Việt-Nam, Nhật-Bản, Triều-Tiên…Đối-lập với Thơ Cổ-Thể, thơ Đường Luật gọi là Thơ Cận-Thể có quy-luất rất khe-khắt. Thơ Đường Luật có một hệ-thống gồm 5 nguyên-tắc phức-tạp như: luật, niêm, vần, đối và bố cục. Về hình-thức, thơ Đường Luật có các loại:

Thất ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là loại căn-bản.

Thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), đây là loại biến-thể.

Ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu năm chữ),

Ngũ ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu năm chữ) và các loại ít phổ-biến khác.

Ở đây, chúng tôi chỉ nói về thể thơ Thất Ngôn Bát Cú vần bằng (thông-thường nhất). Đó là thơ Đường đúng luật, gồm có 8 câu, mỗi câu 7 chữ (tổng-cộng có 56 chữ). Điều kỳ-diệu của thơ Thất Ngôn Bát Cú là mặc dù chỉ gồm có 56 chữ, nhưng nói lên tất cả ý-tình tha-thiết của tác-giả. Hai câu đầu 1 và 2 là 2 câu đề (đặt vấn-đề bài thơ đó nói tới). Hai câu tiếp-theo 3 và 4 là hai câu thực (tả hoặc nói thực về vấn-đề đó. Ý-nghĩa của hai câu này phải đối nhau). Hai câu luận sau đó 5 và 6 (bàn-luận về vấn-đề đó. Ý-nghĩa của hai câu này cũng đối nhau). Cuối-cùng là 2 câu kết 7 và 8 (kết-luận vấn-đề). Nếu không làm đúng như vậy, gọi là thất đối.

Ngoài ra, Thơ Thất Ngôn Bát Cú còn đòi-hỏi những quy-luật về Niêm, và Vần.

Như đã nói, thơ Đường đặt ra những quy-luật rất khe-khắt đối với người làm thơ. Nhưng một bài thơ Đường hay đòi-hỏi người làm thơ phải có thực-tài, tinh-thuộc Luật Thơ, và phải biết vài xảo-thuật về nghệ-thuật dùng chữ, biết rung-động trước cảnh-tượng trước mặt.

Nếu gọi B là thanh Bằng (gồm những chữ không dấu hay dầu huyền), T là thanh Trắc (gồm những chữ có dấu sắc, hỏi, ngã và nặng), và những chữ thứ 1, thứ 3, thứ 5 dùng bằng hay trắc đều được chấp-thuận (nhất, tam, ngũ bất luật), thì trong một bài thơ Đường Luật (Thất Ngôn Bát Cú) vần bằng được sắp-đặt như sau.

Thí dụ:

1 2 3 4 5 6 7 1 B T B B 2 T B T B 3 T B T T 4 B T B B 5 B T B T 6 T B T B 7 T B T T 8 B T B B

Trong một bài thơ, nếu chữ thứ 2 là “bằng” thì gọi là bài “Luật Bằng”, nếu chữ thứ 2 là “trắc” thì gọi là bài “Luật Trắc”.

Ở chữ thứ 7 các câu 1, 2, 4, 6, 8 các thanh bằng phải vần với nhau (mầu đỏ). Nếu không, gọi là thất vận. Những chữ có vần giống nhau hoàn-toàn gọi là “vần chính” (hoa, ta, nhà…), những chữ có vần gần giống nhau gọi là “vần thông” (ing, êng…). Hầu hết thơ Đường đều dùng thanh bằng, nhưng cũng đôi khi thanh trắc.

Quy-luật niêm trong một bài thơ thất ngôn bát cú như sau:

câu 1 niêm với câu 8câu 2 niêm với câu 3câu 4 niêm với câu 5câu 6 niêm với câu 7

Nếu các câu không niêm với nhau, gọi là thất niêm.

Nói chung, nếu bài thơ không theo đúng luật quy-định như trên, gọi là thất luật.

Thơ Cổ Phong hay Cổ Thể, Cổ Thể Thi là một thể thơ cổ có từ trước đời nhà Đường gồm những thể thơ cổ không theo quy-luật khắt-khe như thơ Đường. Thể thơ này có thể là Thất Ngôn Tứ Tuyệt. Thể “Thơ Mới 7 Chữ” sau này ở nước ta có lẽ thuộc Thất Ngôn Tứ Tuyệt nhưng không hạn-định số câu. Thay vì bài thơ chấm-dứt ở câu thứ 4, nó có thể kéo dài tùy theo ý-muốn của tác-giả. Nếu tác-giả thấy bài thơ chưa diễn-tả hết ý mình, có thể kéo dài thêm. Có tác-giả Việt-Nam đã kéo dài bài thơ của mình tới 30 đoạn (mỗi đoạn có 4 câu). Ngày nay, những người làm Thơ Mới ở nước ta thường theo cách này.

Đọc thêm:  1001 thắc mắc: Vì sao gián chết lại nằm ngửa? - Tiền Phong

Xét về luật thơ Đường và bài thơ Hoàng-Hạc Lâu của Thôi-Hiệu, chỉ có câu 1 là gây nhiều “tranh-cãi” nhất trong bao nhiêu năm qua. Nhiều người nghĩ là bài thơ phá thể hay lạc vận. Chữ thứ 7 ở câu 1 (Khứ=去) phải là thanh bằng (đúng luật), sao lại trắc? Thực ra, ở thời Thôi-Hiệu, chữ Khứ (去) còn đọc là “khư” hay “khâu”(vần bằng).

Hán Việt Từ Điển – Thiều Chửu, cũng xác-định như vậy:

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khu/khâu

Còn chữ thừa (đúng ra phải là thanh trắc) và chữ hạc (đúng ra phải là thanh bằng)?

Chữ du (悠) thứ 7 ở câu thứ 4, vần “u”, không khớp với vần “âu” ở những câu khác. Có thể coi đây là 2 “vần thông”.

Có người cho là Thôi-Hiệu áp-dụng lối thơ Cổ-Phong, phối-hợp với thơ Thất Ngôn Bát Cú khi sáng-tác Hoàng-Hạc Lâu. Dù sao, bài thơ này cũng đã có mặt gần 13 thế-kỷ, một tuyệt tác-phẩm không những đã đóng-góp cho văn-học Trung-Hoa một bông hoa đẹp, mà còn giúp cho di-tích Lầu Hoàng-Hạc thêm nổi-tiếng.

Vì là bài thơ hay về tình lần ý, Hoàng-Hạc Lâu được dịch nhiều ra tiếng nước ngoài, đặc-biệt là tiếng Việt. Chúng tôi sưu-tầm thấy có những bản dịch sau đây, xin giới-thiệu với quý bạn:

IV. Các Bản-Dịch Việt-Ngữ:

1. Bản dịch của Tản-Đàn (1889 – 1939):

Tản-Đà được xem là Nhà Thơ có biệt-tài dịch thơ Đường sang thơ lục bát Việt-Ngữ hay nhất.

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơHạc vàng đi mất từ xưaNghìn năm mây trắng bây giờ còn bayHán Dương sông tạnh cây bàyBãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ nonQuê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khói sóng cho buồn lòng ai

2. Bản dịch của Ngô-Tất-Tố (1894 -1954):

Là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nghiên-cứu có ảnh-hưởng lớn ở Việt-Nam trước 1954.

Người xưa cưỡi hạc đã cao bayLầu hạc còn suông với chốn nàyMột vắng hạc vàng xa lánh hẳnNghìn năm mây bạc vẩn vơ bayVàng gieo bến Hán, ngàn cây hửngXanh ngát châu Anh, lớp cỏ dầyTrời tối quê hương đâu tá nhỉ?Đầy sông khói sóng gợi niềm tây

3. Bản dịch của Trần-Trọng-Kim (1883-1953):

Ông là một học giả danh tiếng.

Người đi cưỡi hạc từ xưaĐất nầy Hoàng-Hạc còn lưa một lầuHạc vàng đi mất đã lâuNgàn năm mây trắng một màu mênh môngHán-Dương cây bóng lòng sôngBãi kia Anh-Vũ cỏ trông xanh rìChiều hôm lai láng lòng quê Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu

4. Bản dịch của Vũ-Hoàng-Chương (1916 -1976):

Ông là một Giáo-sư Văn-chương, Triết-Học và là một Nhà Thơ rất nổi-tiếng trước 1975.

Xưa hạc vàng bay vút bóng người Đây lầu Hoàng-Hạc chút thơm rơi Vàng tung cánh hạc đi đi mất Trắng môt màu mây vạn vạn đời Cây bến Hán-Dương còn nắng chiếu Cỏ bờ Anh-Vũ chẳng ai chơi Gần xa chiều xuống đâu quê quán? Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!

5. Bản dịch của Trần-Trọng-San:

Ông là một Giáo-sư Văn-Chương và Hán-Văn trước 1975.

Người xưa cưỡi hạc bay đi mất, Riêng lầu Hoàng Hạc vẫn còn đây. Hạc đã một đi không trở lại, Man mác muôn đời mây trắng bay. Hán-Dương sông tạnh, cây in thắm, Anh-Vũ bờ thơm, cỏ biếc dày. Chiều tối, quê nhà đâu chẳng thấy; Trên sông khói sóng gợi buồn ai.

6. Bản dịch của Trần Minh Ngọc:

Người xưa cưỡi hạc bay điNơi đây còn lại khắc ghi Hạc lầuHạc vàng không trở lại đâuNgàn năm mây trắng trên đầu vẫn trôiHán Dương soi bóng cây, trờiCỏ thơm Anh Vũ non tươi một màuLàng quê chiều vắng – nơi đâu?Trên sông khói sóng gieo sầu lòng ai.

7. Bản dịch của Nguyễn-Minh-Thanh:

Cưỡi hạc người xưa bóng mờ mịt / mịt mờ (đúng vận Thơ Đường) Nay lầu Hoàng-Hạc đứng trơ vơ Hạc vàng một thoáng mù tăm tích Mây trắng ngàn năm mãi lửng lơ Sông biếc Hán-Dương cây lộng bóng Cỏ thơm Anh-Vũ bãi ươm mơ Chiều về quê quán phương nào nhỉ? Khói sóng ơ hờ… ai ngẩn ngơ…

8. Bản dịch của Hà-Thượng-Nhân (1920 – 2011):

Là bút-hiệu của Nhà Thơ Phạm-Xuân-Ninh tên thật là Hoàng-Sĩ-Trinh.

Người xưa cưỡi hạc bay đi mấtLầu Hạc lầu trơ một chốn nàyHoàng Hạc một đi không trở lạiNgàn năm mây trắng ngẩn ngơ bayHán Dương sông tạnh cây xan xátAnh vũ xanh non lớp cỏ dầyChiều xuống biết đâu là cố quậnBuồn chưa sóng nước khói dâng đầy

Đọc thêm:  Sao La là con gì? Ăn gì? Linh vật của Seagames 31 - IAS Links

9. Bản dịch của Nhất-Uyên:

Người xưa cỡi hạc vàng đã khuấtĐể lầu Hoàng Hạc chốn này trơ.Hạc vàng một biệt không về nữa,Mây trắng ngàn năm vẫn lửng lơ.Hán Dương rừng tỏa hồng cây nắngAnh Vũ cỏ thơm xanh bến mơ.Chiều tối quê hương đâu đó nhỉ? Trên sông khói sóng khách sầu thơ.

10. Bản dịch của Trần-Vấn-Lệ:

Buồn trông khói tỏa sông dàiQuê hương chẳng biết hỏi ai bây giờCỏ thơm Anh Vũ mịt mờCây xanh bến Hán không ngờ cứ xanh!Mây trời vá áo thiên thanhMà đâu bóng hạc không đành bay qua?Đây Lầu Hoàng Hạc lầu maNgười xưa cưỡi hạc chơi xa, quên về?

11. Bản dịch của Viêt Bằng:

Hạc vàng vỗ cánh về đâu?Còn đây Hoàng Hạc bên lầu vắng aiHạc vàng khuất bóng không hayNgàn năm mây trắng vẫn bay hững hờHán Dương cây cứ xanh bờCỏ thơm Anh Vũ mờ mờ bãi xaChiều lên chạnh nhớ quê nhàDòng sông khói sóng riêng ta vẫn buồn

12. Bản dịch của Sương Mai:

Người xưa cưỡi hạc về đâuChơ vơ Hoàng Hạc gác lầu trống khôngHạc vàng đã biệt non songNgang trời mây trắng phiêu bồng bay bayHán Dương soi bóng hàng câyBên bờ Anh Vũ xanh đầy cỏ thơmChiều rơi, quê nhớ chưa mònTrên sông khói sóng nghe lòng buồn thêm

13. Bản dịch của Nguyễn-Đăng-Tuấn:

người xưa cưỡi hạc vàng bayđất trơ lầu hạc vàng lay bốn bềhạc vàng bay mất không vềmây trôi trắng buốt, trăng ghê, đời đờiHán Dương bến dọi cây ngờicỏ xanh Anh Vũ mọc cời hoang vungày tan quê khuất bóng mùmù sương khói lượn sông, ừ quắt quay.

14. Bản dịch của ViVi

Cưỡi hạc người xưa lướt gió mâyCho lầu Hoàng Hạc đứng trơ đâyChim vàng một thoát không về lạiMây trắng ngàn năm lặng lẽ bayBền Hán dòng êm cây rợp bóngChâu Anh biêng biếc cỏ thơm vâyQuê nhà khuất bóng khi chiều sẩmSóng khói sông lùa nhớ lắt lay

15. Bản dich của Hà-Việt-Hùng:

Người viết bài này cũng xin mạo-muội góp vài bài dịch như sau:

1.

Người xưa cưỡi hạc về trờiChỉ còn Hoàng-Hạc, hỡi ơi mây-mùChim bay, bay khuất thiên-thuMột vầng mây trắng vi-vu trên trờiHán-Dương lộng bóng nơi-nơiCỏ thơm Anh-Vũ xanh tươi một mầuTrời chiều, quê-quán nơi đâuĐầu sông mây cuốn, lòng đau-đớn lòng.

2.

Tiên ông cưỡi hạc về đâuĐể buồn lầu vắng chơ mầu cỏ câyTrời cao, mây trắng nơi nàyMiên-man gió thổi, chim bay không vềHán-Dương xanh biếc tình quêCỏ hoa Anh-Vũ tái-tê lòng nàyNơi đâu quê-quán chẳng hayMây bay đầu sóng lòng quay-quắt buồn.

3.

Xưa, người cưỡi hạc bỏ điLầu vàng hiu-quạnh những khi vắng ngườiHạc vàng vỗ cánh tung trờiTheo mây bay mãi trắng ngời nước nonHán-Dương soi bóng xanh-dờnCỏ non Anh-Vũ mỏi-mòn thời-gianChiều rồi, đâu hỡi quan-sanMây che sông núi ngỡ-ngàng lòng ta.

4.

Tiên-ông cưỡi hạc về nơi đâuBỏ lại lầu không đứng dãi-dầuHoàng-hạc bay đi không trở lạiNgàn năm mây trắng lướt trên đầuHán-Dương in bóng cây xanh-biếcAnh-Vũ cỏ thơm- ngát một mầuChiều tối, quê-nhà đâu thế nhỉ?Đầu sông khói sóng phủ cơn sầu.

IV. Nhận Xét:

Qua những bản dịch trên, có 8 bài theo thể Thất Ngôn Bát Cú, còn 10 bài theo thể Lục Bát. Về câu thứ 1 (Người xưa cưỡi hạc bay đi mất), có 2 bản dịch giống nhau. Đó là bàn dịch của Trần-Trọng-San và của Hà-Thượng-Nhân.

Bản dịch của Ngô-Tất-Tố có 2 câu 7 và 8 khác nhau.

Hoàng hôn về đó quê đâu tá?Khói sóng trên sông não dạ người

Bản dịch này vần “ay”, nên chúng tôi đã chọn câu có vần “ây” ( thông vận), thay vì vần “ươi”.

Chúng tôi nghe nói có bản dịch Hoàng-Hạc Lâu của Nguyễn-Du và của Mao-Trạch-Đông, và một ca-khúc của Cung-Tiến phổ thơ Vũ-Hoàng-Chương về ngôi lầu này, nhưng rất tiếc chưa được biết qua. Bạn đọc nào đã dịch hay biết có bản dịch nào hay, xin vui-lòng gửi về Làng Huệ, chúng ta cùng thưởng-thức.

VI. Tài liệu tham-khảo:

– Wikipedia.- Sách vở, tạp-chí và các websites liên-quan.- Hình Ảnh Trôi Đi (Tập Thơ), Việt-Bằng.- Tô-Thùy-Yên, Giai-Phẩm Xuân Người Việt (Kỷ Sửu – 2009)

Hà-Việt-Hùng

Đánh giá bài viết

Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!

Dustin Đỗ

Tôi là Dustin Đỗ, tốt nghiệp trường ĐH Harvard. Hiện tôi là quản trị viên cho website: www.hql-neu.edu.vn. Hi vọng mọi kiến thức chuyên sâu của tôi có thể giúp các bạn trong quá trình học tập!!!

Related Articles

Back to top button