Tình trạng chiến tranh là gì? Tuyên bố tình trạng chiến tranh?

Trước khi đất nước ta sống trong cuộc sống hòa bình như hiện nay thì đồng bào ta, những người cha ông ta đã phải đối đối với những cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt để có thể giành lấy nền hòa bình độc lập tự do. Nó được biết đến với một tình trạng chiến tranh rất thảm khốc với nhiều mất mát và đau thương. Vậy thì tình trạng chiến tranh ở đây được định nghĩa là gì? Tuyên bố tình trạng chiến tranh? Hãy tìm hiểu nội dung liên quan đến vấn đề này trong bài viết dưới đây:

Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

Cơ sở pháp lý:

– Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

– Nghị quyết 1075/2015/UBTVQH13 về Quy chế làm việc của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Tình trạng chiến tranh là gì?

Chiến tranh là một cuộc xung đột vũ trang dữ dội [a] giữa các bang, chính phủ, xã hội hoặc các nhóm bán quân sự như lính đánh thuê, quân nổi dậy và dân quân. Nó thường được đặc trưng bởi bạo lực cực độ, gây hấn, hủy diệt và chết chóc, sử dụng lực lượng quân sự thường xuyên hoặc không thường xuyên. Chiến tranh đề cập đến các hoạt động và đặc điểm chung của các loại hình chiến tranh, hoặc của các cuộc chiến tranh nói chung. Chiến tranh tổng lực là chiến tranh không giới hạn ở các mục tiêu quân sự hoàn toàn hợp pháp và có thể dẫn đến thương vong và thương vong lớn cho dân thường hoặc những người không tham chiến khác.

Trong khi một số học giả nghiên cứu chiến tranh coi chiến tranh là một khía cạnh phổ biến và tổ tiên của bản chất con người, những người khác cho rằng đó là kết quả của các hoàn cảnh văn hóa xã hội, kinh tế hoặc sinh thái cụ thể.

Theo từ điển Luật học thì tình trạng chiến tranh được biết đến là tình trạng đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra xung đột quân sự giữa hai quốc gia hay nhiều quốc gia. Khi tình trạng chiến tranh được công bố, mọi hoạt động sinh hoạt của nhà nước, xã hội từ trạng thái thời bình sẽ chuyển sang thời chiến và được điều hành bằng pháp luật thời chiến. Theo Khoản 5 – Điều 103 – Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chủ tịch nước công bố tình trạng chiến tranh căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, hoặc nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội (trong trường hợp Quốc hội không họp).

Chiến tranh là một công cụ hợp lý của chính sách đối ngoại: “một hành động bạo lực nhằm buộc đối thủ của chúng ta thực hiện ý muốn của chúng ta”. Các định nghĩa hiện đại về chiến tranh, chẳng hạn như “xung đột vũ trang giữa các đơn vị chính trị”, thường bỏ qua các định nghĩa hẹp, mang tính pháp lý của thế kỷ 19, vốn hạn chế khái niệm chính thức tuyên chiến giữa các quốc gia. Định nghĩa như vậy bao gồm các cuộc nội chiến nhưng đồng thời cũng loại trừ các hiện tượng như nổi dậy, cướp biển hoặc cướp biển. Cuối cùng, chiến tranh thường được hiểu là chỉ bao gồm các cuộc xung đột vũ trang trên quy mô khá lớn, thường loại trừ các cuộc xung đột có ít hơn 50.000 chiến binh tham gia.

Đọc thêm:  Phòng chống bạo lực học đường trong trường học

Hay còn được biết đến là quan hệ giữa các nước kể từ khi các nước đó tuyên chiến với nhau hoặc từ khi thực sự bắt đầu xung đột vũ trang cho đến lúc kết thúc chiến tranh. Cũng có khi giữa nước này và nước khác có xảy ra xung đột quân sự nhưng không nhất thiết là có tình trạng chiến tranh, như trường hợp xung đột biên giới.

Khi bắt đầu tình trạng chiến tranh, các quan hệ ngoại giao, buôn bán, tài chính… giữa các nước tham chiến đều bị cắt đứt; mọi giao kèo, hợp đồng giữa các công dân và pháp nhân của bên nọ với bên kia đều bị cấm; tài sản của nước tham chiến ở nước đối địch bị tịch thu (trừ tài sản của cơ quan đại diện ngoại giao và lãnh sự); các tàu buôn bị mắc kẹt ở các cảng của nước đối địch có thể bị giữ cho đến hết chiến tranh hoặc bị trưng dụng; các kiều dân nước đối địch có thể bị thi hành chế độ quản thúc. Hình thức pháp lí cơ bản để kết thúc tình trạng chiến tranh là hiệp ước hoà bình. Trước khi kí kết hiệp ước hoà bình, có thể chấm dứt các hành động quân sự do có sự thoả thuận về đình chiến, hoặc do có sự đầu hàng của một bên đối địch.

Tình trạng chiến tranh là trạng thái xã hội đặc biệt của đất nước được tuyên bố từ khi Tổ quốc bị xâm lược cho đến khi hành vi xâm lược đó được chấm dứt trên thực tế.

Phản ánh những thay đổi trong hệ thống quốc tế, các lý thuyết về chiến tranh đã trải qua nhiều giai đoạn trong suốt ba thế kỷ qua. Sau khi kết thúc các cuộc chiến tranh tôn giáo, vào khoảng giữa thế kỷ 17, các cuộc chiến tranh diễn ra vì quyền lợi của các chủ quyền cá nhân và bị giới hạn cả về mục tiêu và phạm vi của chúng. Nghệ thuật điều động trở nên quyết định, và việc phân tích chiến tranh cũng được đưa ra phù hợp về mặt chiến lược.

Đọc thêm:  Windows Media Player là gì? Chức năng của Windows Media Player

Tình hình đã thay đổi về cơ bản với sự bùng nổ của Cách mạng Pháp, làm tăng quy mô lực lượng từ các đội quân lính nghĩa vụ chuyên nghiệp nhỏ đến lớn và mở rộng các mục tiêu chiến tranh sang các lý tưởng của cách mạng, những lý tưởng lôi cuốn quần chúng bị bắt đi lính. Theo trật tự tương đối của châu Âu thời hậu Napoléon, khuynh hướng lý thuyết quay trở lại ý tưởng chiến tranh như một công cụ hợp lý, hạn chế của chính sách quốc gia. Cách tiếp cận này đã được nhà lý thuyết quân sự người Phổ Carl von Clausewitz trình bày rõ nhất trong tác phẩm kinh điển nổi tiếng On War.

2. Tình trạng chiến tranh tên tiếng Anh là gì?

Tình trạng chiến tranh tên tiếng Anh là: “War situation”.

3. Tuyên bố tình trạng chiến tranh?

Tình trạng chiến tranh là tình trạng đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra xung đột quân sự giữa hai quốc gia hay nhiều quốc gia. Khi tình trạng chiến tranh được công bố, mọi hoạt động sinh hoạt của nhà nước, xã hội từ trạng thái thời bình sẽ chuyển sang thời chiến và được điều hành bằng pháp luật thời chiến.

Khi Tổ quốc bị xâm lược, Quốc hội quyết định tình trạng chiến tranh. Trong trường hợp Quốc hội không thể họp được, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh và báo cáo Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh. Khi hành vi xâm lược được chấm dứt trên thực tế, Quốc hội quyết định bãi bỏ tình trạng chiến tranh.

Trình tự tuyên bố tình trạnh chiến tranh của Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định tại Khoản 1 Điều 60 Nghị quyết 1075/2015/UBTVQH13 về Quy chế làm việc của Ủy ban thường vụ Quốc hội như sau:

Điều 60. Tuyên bố tình trạng chiến tranh

1. Ủy ban thường vụ Quốc hội tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp Quốc hội không thể họp được theo trình tự sau:

a) Hội đồng quốc phòng và an ninh trình tờ trình và dự thảo nghị quyết;

b) Ủy ban quốc phòng và an ninh của Quốc hội trình báo cáo thẩm tra.

c) Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận;

b) Chủ tọa phiên họp tổng hợp ý kiến phát biểu, nêu nội dung để Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết;

đ) Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua nghị quyết.”

Chiến tranh, theo nghĩa phổ biến, một cuộc xung đột giữa các nhóm chính trị liên quan đến sự thù địch với thời gian và mức độ đáng kể. Trong cách sử dụng của khoa học xã hội, một số trình độ nhất định được thêm vào. Các nhà xã hội học thường chỉ áp dụng thuật ngữ này cho những xung đột như vậy nếu chúng được khởi xướng và tiến hành phù hợp với các hình thức được xã hội thừa nhận. Họ coi chiến tranh như một thể chế được thừa nhận trong phong tục hoặc luật pháp.

Đọc thêm:  Cách tạo thư mục Google Drive trên máy tính & điện thoại

Các nhà văn quân sự thường giới hạn thuật ngữ này với các hành động thù địch trong đó các nhóm tranh chấp có đủ quyền lực ngang nhau để đưa ra kết quả không chắc chắn trong một thời gian. Xung đột vũ trang của các quốc gia hùng mạnh với các dân tộc bị cô lập và không có quyền lực thường được gọi là bình định, quân viễn chinh, hoặc thám hiểm; với các trạng thái nhỏ, chúng được gọi là sự can thiệp hoặc sự trả thù; và với các nhóm nội bộ, các cuộc nổi dậy hoặc các cuộc nổi dậy. Những sự cố như vậy, nếu sự phản kháng đủ mạnh hoặc kéo dài, có thể đạt được mức độ lớn khiến chúng được gọi là “chiến tranh”.

Trong mọi thời đại, chiến tranh là một chủ đề phân tích quan trọng. Vào cuối thế kỷ 20, do hậu quả của hai cuộc Thế chiến và trong bóng tối của thảm sát hạt nhân, sinh học và hóa học, nhiều tác phẩm được viết về chủ đề này hơn bao giờ hết. Nỗ lực tìm hiểu bản chất của chiến tranh, hình thành một số lý thuyết về nguyên nhân, cách tiến hành và phòng ngừa của nó, có tầm quan trọng rất lớn, vì lý thuyết định hình kỳ vọng của con người và quyết định hành vi của con người. Các trường phái lý thuyết khác nhau thường nhận thức được ảnh hưởng sâu sắc mà họ có thể thực hiện đối với cuộc sống, và các bài viết của họ thường bao gồm yếu tố quy chuẩn mạnh mẽ, vì khi được các chính trị gia chấp nhận, ý tưởng của họ có thể mang đặc điểm của những lời tiên tri tự ứng nghiệm.

Việc phân tích chiến tranh có thể được chia thành nhiều loại. Các phương pháp tiếp cận triết học, chính trị, kinh tế, công nghệ, pháp lý, xã hội học và tâm lý học thường được phân biệt. Những sự khác biệt này cho thấy các trọng tâm quan tâm khác nhau và các phạm trù phân tích khác nhau mà nhà lý thuyết sử dụng, nhưng hầu hết các lý thuyết thực tế đều lẫn lộn vì chiến tranh là một hiện tượng xã hội cực kỳ phức tạp không thể giải thích bằng bất kỳ yếu tố đơn lẻ nào hoặc thông qua bất kỳ cách tiếp cận đơn lẻ nào.

Đánh giá bài viết

Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!

Dustin Đỗ

Tôi là Dustin Đỗ, tốt nghiệp trường ĐH Harvard. Hiện tôi là quản trị viên cho website: www.hql-neu.edu.vn. Hi vọng mọi kiến thức chuyên sâu của tôi có thể giúp các bạn trong quá trình học tập!!!

Related Articles

Back to top button