Phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống qua Vợ

1. Dàn ý phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống trong Vợ nhặt:

1.1. Giới thiệu tóm tắt tác giả, tác phẩm:

a.Kim Lân là nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại với chủ đề: Cuộc sống làng quê. Ông có nhiều đóng góp cho thể loại truyện ngắn viết về đề tài tư liệu này. Đó là sự thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ của người nông dân và sự đổi thay trong cuộc sống của họ.

b. Truyện ngắn “Vợ Nhặt” thực chất là một chương trong tiểu thuyết “Cư dân” (1946). Tác phẩm được viết ngay sau CMT8 1945 nhưng dở dang và bị thất lạc bản thảo. Sau ngày hòa bình lập lại năm 1954, Kim Lân dựa trên một truyện cũ viết tiếp truyện ngắn này.

c. “Vợ Nhặt” là một truyện ngắn xuất sắc không chỉ của Kim Lân mà còn là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Qua tình tiết vợ Tràng nhập nhằng, tác phẩm đã thể hiện được chiều sâu nhân đạo và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân ở làng quê, đặc biệt là ở các nhân vật: Tràng, người vợ. Mẹ và bà Tư.

1.2. Phân tích:

– Có thể phân tích từng nhân vật để làm rõ vẻ đẹp nhân văn và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người dân ngụ cư ngay trong cảnh cùng cảnh ngộ. Cũng có thể phân tích hai luận điểm của đề, trong đó thời gian được chứng minh qua các nhân vật. Dù bằng cách nào, phân tích nên làm nổi bật các điểm sau:

a. “Cảnh khốn cùng” và “hoàn cảnh bất hạnh” không khiến cư dân chạnh lòng. Họ vẫn vượt qua cái chết, mất mát để cùng sống với nhau bằng tình người cao đẹp.

Vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn Tràng.

Hào tiệp, thương người chia sẻ thức ăn với một người phụ nữ xa lạ đang chết đói; khi cưu mang thị dù mình cũng đang khốn khổ.

Hay chu đáo và ân cần khi mua cho nàng chiếc giỏ con, cùng nàng ăn một bữa no nê, mua 2 hào dầu đánh dấu ngày “rước vợ”.

Thái độ biết ơn và trách nhiệm: Thấy vợ buồn là đau lòng; trân trọng tình yêu không có nắng chói chang; mong muốn được “sửa sang lại ngôi nhà” – nơi Trang sẽ sống cùng những người cô yêu thương…

Vẻ đẹp trong tâm hồn của “người vợ hờ”:

Lúc đầu, tôi đi theo Trang chỉ để kiếm cái gì ăn cho đỡ đói, thấy cảnh ngộ của Trang, tôi chạnh lòng nhưng ở lại ngôi nhà đó vì tôi hiểu rằng mình đã tìm được nhiều thứ quý giá hơn miếng ăn. ăn, đó là tình người cao đẹp, đó là tấm lòng nhân hậu của người sẵn sàng chịu đựng, yêu thương cô khi họ đang khao khát cô.

Người vợ sắp chết đã có sự thay đổi sâu sắc sau khi theo Tràng về nhà: vẻ lãng tử, lẳng lơ đã thay bằng sự dịu dàng, đoan trang, công việc may mắn, cư xử chu đáo.

Cái đẹp trong lòng bà Tú: Việc người con trai “nhặt vợ” giữa tiếng cò quay quay khiến bà ngỡ ngàng, sửng sốt nhưng khi “hiểu ra nhiều điều” thì lòng bà lại rung động. với tình yêu. tình: thương con, thương con dâu, xót xa cội nguồn của tình mẫu tử. Hãy cố gắng làm cho các em vui vẻ trong bữa ăn trong ngày, làm thức ăn cho các con vật thân yêu với con người…

b. Sự “Sự túng đói quay quắt”, “hoàn cảnh khốn khổ” không ngăn được niềm hy vọng trong cuộc sống của cư dân – một niềm hy vọng đã tạo nên vẻ đẹp rạng ngời trong tâm hồn họ.

Nhân vật Tràng: sau cảm giác “lựa chọn” và “sợ hãi” khi “cơm này còn không biết có nuôi nổi thân mình hay không, còn manh áo” thì Tràng thích, Phát và từ đó Tràng cảm thấy hạnh phúc. đang và sẽ đi vào cuộc sống của bạn. Cơn mưa hai luồng sáng, cảm giác bồng bềnh thơ mộng trong mơ hiện ra, dự báo một tương lai mình sẽ có con với vợ ở đây”… Đặc biệt là hình ảnh những lá cờ đỏ phấp phới bay phấp phới trong đầu Tràng. những biểu hiện của một hy vọng mong manh nhưng chắc chắn về tương lai.

Người “vợ hờ”: sự thay đổi trong thái độ, cách ứng xử khi cùng mẹ chồng quét cửa cũng phần nào cho thấy niềm hy vọng, sự đổi đời đang âm thầm diễn ra trong lòng chị.

Bà cụ Tứ: là người thể hiện rõ nhất niềm hi vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn: bà lo liệu mọi việc lặt vặt, chia phòng, nuôi gà, động viên con cháu có lý. “Ai thương cha, ai khó ba đời”, cùng các con dọn dẹp nhà cửa cho quang quẻ.

1.3. Đánh giá chung:

Tính nhân văn và niềm hy vọng vào cuộc sống đã tạo nên một vẻ đẹp vừa “ấn tượng” vừa rạng ngời trong lòng cư dân.

Phát hiện và miêu tả vẻ đẹp ấy trong tâm hồn người dân chài, Kim Lân đã đi đến một tác phẩm mới mẻ, sâu sắc về tình cảm nhân đạo.

2. Bài Phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống qua Vợ nhặt hay nhất:

Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 xảy ra trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực, có thể coi là con đẻ của ruộng đồng, một con người ngược xuôi với cái “thuần phong thuỷ” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông bắt tay ngay vào viết tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” Khi hòa bình lập lại (1954), trăn trở không ngừng ông viết tiếp truyện cổ tích ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ vắng” ra đời.

Ở lần này, Kim Lân đã thực sự đưa vào truyện cổ tích của mình một phát hiện mới, một điểm sáng soi sáng toàn bộ tác phẩm. Đó chính là vẻ đẹp nhân văn và niềm hi vọng trong cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ hờ của anh Tư. Truyện cổ tích thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và quan trọng nhất là Kim Lân đã phát hiện ra một diễn biến tâm lí bất ngờ.

Trong một bài diễn văn, Kim Lân từng nói: “Viết về nạn đói người ta thường viết về cái nghèo khổ, bi đát. Viết về những con người trong năm đói người ta thường nghĩ đến những kẻ lừa đảo chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một đoản câu chuyện với một ý tưởng khác. Cùng một hoàn cảnh công an, dù cận kề cái chết nhưng những con người này không hề nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng về sự sống, vẫn hy vọng và tin tưởng vào tương lai.Tôi muốn sống, sống để làm người .” Và điểm sáng mà người viết muốn hướng đến trong tác phẩm chính là ở chỗ, bằng cách kể chuyện, xây dựng tình tiết “vợ nhặt” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lí nhân vật rất tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân. , ngôn ngữ giản dị, trong cuộc sống đời thường nhưng với sự chọn lọc chắt lọc kĩ càng đó, nhà văn đã tái hiện trước mắt chúng ta một khoảng thời gian thật tai hại, thê lương, trong đó kẻ sống và kẻ chết ngổn ngang. những bóng ma của đồ vật, im bặt giữa tiếng kêu thê lương và khiếp sợ của bầy quạ.. Bằng tấm lòng chân thành, nhân hậu, nhà văn đã đưa vào không gian tối đen ấy những sân sống cố vươn tới tương lai, những tình cảm chân thành, nghĩa tình giản dị nhưng rất đỗi cao cả. , thân em và gia đình Người viết đã đi đến thân phận của ông Tràng, vợ cả và bà cụ Tứ thăng hoa để dẫn ngọn cờ đỏ phấp phới cùng những người dân đói khổ khám phá nước Nhật ở cuối truyện cổ tích.

Đọc thêm:  Thuyết minh về nghệ thuật sấn khấu tuồng

Có thể nói, Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi bịa ra câu chuyện “nhặt vợ” của ông Tràng. Tình yêu ấy là cánh cửa khép kín để nhân vật bộc lộ vẻ đẹp trong tâm hồn. Hình như trong cơn đói, người ta dễ tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người còn không đủ, sao có thể nhổ thêm người khác. Trong tình yêu ấy, người ta dễ cấu xé nhau, người ta ích kỷ nhiều hơn vị tha, người ta rất nhẫn nhịn và làm khổ nhau. Nhưng nhà văn Kim Lân lại phát hiện ra điều ngược lại như ở các nhân vật anh Tràng, người vợ hờ và bà cụ Tứ. Chúng ta đã từng khiếp sợ trước “những xác chết đầy đường”, “người lớn xám xịt như những bóng ma”, trước “mùi rác và sự vô hồn của xác người trong không khí”, chúng ta đã lạnh sống lưng trước “Tiếng hết lần này đến lần khác”, nhưng lạ lùng thay, ta không khỏi xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình dị, giản dị ấy của Tràng, của cụ Tứ và cả của vợ Tràng.

Một chàng trai xóm ngụ cư như Tràng, một người đàn ông- thân hình vạm vỡ, chất phác, xấu xí nhưng chất chứa biết bao tình cảm cao đẹp. “Cái đói về làng này từ bao giờ”, thế mà Tràng vẫn đánh vợ người khác khi không biết kiếp trước mình ra sao. Trang đã thực sự lĩnh vực. Và vợ Tràng cũng vậy. Khi hai cái tên gặp nhau, họ trở thành một gia đình. Điều đó thật đau lòng và thật đáng buồn. Và bỗng lúc ấy trong con người Tràng ấy bừng lên một niềm đam mê sống, một khát khao yêu thương chân thành. Và bỗng bắt đầu mơ mộng thực tế về hơi ấm của tình nghĩa vợ chồng, của hạnh phúc tân hôn. Dù hành động của Tràng là vô tình, không mục đích, chỉ vì mục đích nhảm nhí nhưng nó cũng bộc lộ tình cảm của một kẻ lừa đảo biết yêu thương, chăm sóc, quan tâm đến những người cùng cảnh ngộ. . Như một lẽ tất nhiên, Trang vô cùng bất ngờ, Beat thì “sợ”, “ngỡ ngàng”, “ngỡ ngàng” như không, nhưng chính tình cảm lứa đôi đã tiếp thêm sức mạnh, thổi bùng ngọn lửa tình yêu và nhen nhóm trong cuộc sống. trách nhiệm gia đình trong chương trình giảng dạy. Tình yêu vợ chồng nồng ấm trỗi dậy như khiến Trang thay đổi hẳn suy nghĩ. Từ một gã khờ khạo, thô lỗ, bạc bẽo, Tràng sớm trở thành một người chồng thực sự khi chấp nhận vun vén cho hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy như có cái gì cứ “ôm ấp vuốt ve khắp da thịt. Tưởng như có bàn tay vuốt nhẹ dọc sống lưng”. Tình yêu và hạnh phúc khiến “trong phút chốc, Tràng chập chờn như quên tất cả, quên những khao khát đang theo đuổi, quên những tháng năm đã qua”. Và Tràng mong được hạnh phúc. Nhịp đập của một người đàn ông trong Trang đã trở lại. Những thay đổi của anh thật bất ngờ nhưng rất logic. Có phải những thay đổi này không có gì khác ngoài một tâm hồn tốt bụng, đơn giản và yêu thương? Trong con người Tràng khi tỉnh dậy sau niềm hạnh phúc thật khác. Tràng không phải là con người Tràng ngày xưa nữa mà bây giờ Tràng là một người đàn ông hiếu thảo, một người chồng có trách nhiệm ngay cả trong suy nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét nhà, bày trò vui muốn cảnh gia đình hạnh phúc. “Anh ấy cảm thấy mình có trách nhiệm hơn vợ con trong tương lai.” Anh ấy cũng có thể tháo rời sân để dọn dẹp nhà cửa. Cử chỉ của anh trong Tràng không chỉ là một câu chuyện bình thường, đó là một sự thay đổi lớn. Chính tình thương vợ, tình mẹ con hòa thuận đã nhen nhóm trong anh niềm hạnh phúc điên cuồng, niềm tin rằng cuộc đời sẽ đổi thay khi anh bắt đầu nghĩ đến những người dân đói khát và lá cờ đỏ phấp phới bay phấp phới. Rồi số phận và cuộc đời của kẻ ra đòn, vợ và mẹ hắn sẽ thay đổi. Hắn tin thế.

Nạn đói ấy không thể ngăn được ánh sáng của nhân loại. Đêm đen ấy sẽ qua đi và chờ đợi ánh sáng của một cuộc sống tự do đang chờ đợi các lực lượng cách mạng. Lại nữa, không phải lúc nào Kim Lân cũng gieo niềm vui và niềm tin đó vào nhân vật của mình.

Vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong truyện cổ tích. Sự xuất hiện của Thị đã làm thay đổi cuộc sống của những người dân xóm nghèo gầy gò, khiến những gương mặt hốc hác, đen sạm của ai cũng bừng sáng. Từ một người nhút nhát trở thành một người vợ hiền, đó chắc chắn là một quá trình biến đổi. Điều gì thay đổi thị trường? Đó là tình người, đó là tình yêu. Dù Thị không theo Tràng, chỉ qua bốn cái bánh, cái bát và hai câu vênh váo của Tràng, ta cũng không khinh. Nếu có trốn học thì chỉ có thể là hướng đến xã hội thực dân phong kiến đã che mờ quyền sống của con người. Bà xuất hiện già nua, quê mùa, trong tư thế “tú ông trá hình”, điệu bộ trông thảm hại, nhưng lại là người gieo cho Tràng, thay đổi tất cả, từ không khí xóm giềng. không có gia đình không khí. Thị đã tìm được một sức sống mới, sức sống ấy chỉ có được khi chứa đựng một niềm tin, một khát vọng cao cả về cuộc sống và tương lai. Thị được miêu tả khá ít nhưng thị là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiều thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng cũ, bà cụ Tứ vẫn đau đáu, khổ sở. Kim Lân ngoài đời cũng đã thành công khi xây dựng nhân vật này để góp phần ca ngợi sức sống và vẻ đẹp của con người, niềm tin vào cuộc sống phía trước ở những kẻ lừa đảo đói ăn ấy. Và thật bất ngờ khi nói về khát vọng vào tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc sống, người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như vợ chồng Tràng, nhưng Kim Lân lại phát hiện ra một nét rất độc đáo: tình cảm, khát vọng trong cuộc đời ấy lại được chú trọng. Miêu tả khá kĩ nhân vật bà cụ Tứ. Với nhân vật này, Kim Lân đã bộc lộ lối viết cổ hủ, vàng son trong việc miêu tả tâm lí nhân vật.

Đọc thêm:  Hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên

Bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa truyện nhưng nếu không có nhân vật này thì tác phẩm không có chiều sâu nhân văn. Đưa nhân vật bà cụ Tứ vào tác phẩm, Kim Lân đã cho ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Như mọi khi, các nhà văn muốn nhân vật của mình nổi bật giữa đám đông thường đặt nhân vật vào một tình huống rất căng thẳng. Tất nhiên, giữa các nhân vật phải diễn ra sự đấu tranh không ngừng, mà cụ thể hơn là trong nội tâm của nhân vật. Bà Tú là một ví dụ điển hình. Cuộc hôn nhân của Tràng đã gây ra cú sốc lớn trong tâm trí người mẹ nghèo thương con. Cô chợt hoang mang trước sự xuất hiện của một người phụ nữ trong nhà mà cô chưa bao giờ nghĩ tới và có lẽ sẽ không bao giờ nghĩ tới. Ngạc nhiên và ngỡ ngàng, bà cụ “gối đầu im lặng”. Cử chỉ, hành động bao hàm tâm trạng. Đó là sự vui buồn lẫn lộn, buồn vui xen lẫn vào nhau khiến cô rất hồi hộp. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà nhìn cô con dâu đang “lăn qua vành nón” mà chạnh lòng. Bà nghĩ: “Khó khăn thế này mới rước được con, chứ lấy được vợ thôi”. Và thật cảm động khi ông bà nói, chỉ một câu thôi, nhưng thật sâu sắc và ý nghĩa: “Có nhau thì nhất định phải hạnh phúc bên nhau”.

Nghèo đói bủa vây gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi cô đang cận kề cái chết. Nhưng trong tâm trí người mẹ tội nghiệp ấy, cái đói không còn là trở ngại lớn nữa. Đói và rét thật đấy nhưng trong lòng anh vẫn sáng lên tình yêu chân thành. Bà thương con, thương con dâu, thương cả bản thân mình. Bà cụ Tứ từ trong lòng, nỗi buồn về hoàn cảnh gia đình vẫn không thổi bùng lên ngọn lửa tình người. Bà dang tay đón các con dâu. Nàng đầy lòng thương xót, trong tuyệt vọng nhưng vẫn chất chứa một đời hận thù. Chính ở người mẹ tội nghiệp ấy, ngọn lửa tình người, tình yêu thương con người đã bùng lên mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của cái nghèo bủa vây, bà lão vẫn gieo vào lòng những đứa con của mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc Tràng nên chuẩn bị nuôi gà, rồi đẻ con, bà lão kể đủ chuyện vui trong bữa đói bữa no. Cô chấp nhận hạnh phúc con cái để sưởi ấm cho mình. Đặc biệt chi tiết cám gạo ở cuối truyện cổ tích thể hiện rõ ánh sáng của người tình. Than ôi, cái cổ rũ và sự yếu ớt của anh ấy là món quà của một trái tim rộng lượng tràn ngập tình yêu thương. Bà lão “họp” bưng ấm chè và vui vẻ giới thiệu: “Chè óc đây. Ngon lạ lùng”. Ở đây nụ cười đã lẫn với nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối truyện không khỏi làm ta xúc động, xót xa chua xót cho số phận của họ nhưng cũng chứa đựng một niềm cảm phục lớn lao ở những đứa con thường hiền lành, đáng quý. .

Kim Lân với nghệ thuật viết lão cuốc, trụ vàng đã đem đến một chủ đề mới trong chủ đề cái đói. Nhà văn đã khẳng định thành công ánh sáng con người hiện thực ở ba nhân vật. Điều khiến ta trân quý nhất là vẻ đẹp nhân văn và niềm vui hy vọng vào cuộc sống mạnh mẽ nhất ở những con người tội nghiệp, đáng thương ấy. Ba nhân vật Tràng, vợ chồng Tràng, cụ Tứ với những tình cảm và lẽ sống cao đẹp của họ là điểm sáng mà Kim Lân đã dày công suy ngẫm để thể hiện một cách độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thực hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khả năng dựng chuyện, kể chuyện của Kim Lân – một nhà văn được đánh giá cao vì viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì thế.

“Cái đẹp cứu người” (Dostoyepki). Vâng, tác phẩm “Giả vợ” của nhà văn Kim Lân thể hiện sức mạnh kỳ diệu đó. Ánh sáng của tình người, niềm tin vào cuộc sống là ngọn nguồn giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam nói chung, về vấn đề cái đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người, về tình người. Đọc xong truyện cổ tích, ấn tượng mạnh nhất trong tâm hồn người đọc là ở điểm sáng kì diệu.

3. Bài Phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống qua Vợ nhặt ý nghĩa nhất:

Nạn đói năm 1945 mà thực dân Pháp gây ra cho chúng ta là một sự thật hết sức nặng nề, nạn đói năm ấy không chỉ là vấn đề được lịch sử đề cập mà còn là vấn đề xã hội lúc bấy giờ. được nhắc đến. đến trong văn học. Tác phẩm tiêu biểu viết về nạn đói năm ấy là truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân – một nhà văn của làng. Kim Lân không chỉ thành công trong việc xây dựng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng mà ông còn thành công trong việc miêu tả nạn đói năm 1945 trong truyện ngắn Vợ Nhặt. Đặc biệt tác giả không chỉ kể về nạn đói đó mà còn miêu tả tác hại của cái đói đối với các nhân vật của mình mà cụ thể ở đây là Tràng, vợ ông và bà cụ Tứ. Trong nạn đói đó, con người Việt Nam vẫn toát lên vẻ đẹp nhân văn và niềm tin yêu vào cuộc sống.

Nạn đói năm 1945 được nhà văn Kim Lân miêu tả là đau thương, nhưng chính trong hoàn cảnh đau thương ấy, ta thấy được vẻ đẹp của con người Việt Nam chúng ta. Cái đói kéo đến xóm trọ của mẹ con Trang. Sáng ra đường thấy vài xác chết, đến trưa có người đói trên đường về, họ chết. Hôm nay phải có ba thây ma nằm trên đường. mặt trên của thiết bị kêu cót két. Có thể nói rằng các vị thần đã bao quanh nơi này.

Đọc thêm:  Điểm Chuẩn Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng 2023 Chính Thức

Trước hết là vẻ đẹp con người ở các nhân vật trong truyện, người đầu tiên phải kể đến là ông Tràng. Anh và người mẹ già sống trong một khu phố nơi cư dân thường bị coi thường. Tràng có ngoại hình xấu xí, mắt gà, lui cui như gấu. Anh làm nghề kéo xe, anh thường kéo xe gạo đi tỉnh, có lần đang kéo anh thấy mấy cô gái rủ nhau quay nhanh những hạt gạo vương vãi trên đường. Anh thản nhiên ngâm nga một câu:

“Có ăn cơm trắng với giò này

Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”

Không ngờ những cô gái khác cũng hưởng ứng Tràng, họ đưa một cô đến bên anh và cười. Câu chuyện cũng bắt đầu từ đó, Triển hứa hẹn nhưng anh cũng có nhiều hơn cô gái ấy. Sau vụ đó, anh đang ngồi uống nước thì cô bước ra trông khác hẳn. khuôn mặt gầy gò của anh trông giống như một con cào cào. Thị như hiện thân của cái đói. Rồi hôm đòi ăn, hôm trước gọi điện cho Tiêu, cô nói dối, cô ăn ngay một bát bánh. Trang nghĩ thật hào phóng. Nhưng thật lòng, dù Trang có nhìn thị thế nào thì cũng không thể từ chối, đó là tình cảm của Tràng dành cho thị. Thị ăn xong theo hắn về nhà Tràng, nghĩ đến thân xác mình chưa được chăm sóc lại còn đeo bao, thế mà hắn vẫn nghịch lông của nàng rồi đưa Thị về nhà. Cả xóm trọ ai cũng nhìn vào mà lo cho anh, tuy biết giường chiếu hoành hành nhưng Tràng mê người không bỏ được người đàn bà khác, đã thế anh đã có vợ rồi, vợ ngó ngoáy bên ngoài. đường. Chà, trong nạn đói, mọi người bị coi như rác rưởi có thể di chuyển và mang về.

Vẻ đẹp của tình người còn thể hiện ở người vợ kia Thị hiện lên xấu xí, ghê tởm. Kim Lân ví Thị với hiện thân của cái đói, gầy “mặt như lưỡi cày”. Cái đói ấy chính là nguyên nhân khiến Thị trở nên rệu rã, mất đi vẻ duyên dáng. Nghe anh Trang nói chuyện, tôi tin ngay nên chạy ra đây đánh xe bò với anh. Còn thị sợ cái gì nữa, mặc dù thị không nhận ra nhưng Thi bắt nó về làm quen, rồi sà xuống ăn bánh xèo, ăn xong còn dắt theo một con mèo nghịch ngợm. Có lẽ cô ấy đã quá đói để chú ý đến sự dịu dàng của một cô gái nữa. Thị không biết đi đâu nữa. Thị theo Tràng về nhà. Thị nghĩ mình sẽ hạnh phúc. Nhưng khi về đến nhà Tràng mới nhận ra những gì Thị mơ ước không hề giống với thực tế trước mắt. Mặt Thi giật mình, nhưng Thi đành chấp nhận và quyết định ở lại với cô. Đó cũng là tình người đáng quý, không thấy người vây bắt, không thấy khó bỏ người.

Còn bà Tú, bà là một người mẹ tài đức vẹn toàn. Dù đã xế chiều, cô vẫn phải kiếm chút tiền để trang trải cuộc sống thiếu đói. Khi quay lại, bà nhìn thấy những hành động của Trang và cảm thấy mình đã linh cảm được điều gì đó. Bước vào sân ngó vào nhà thấy người đàn bà ngồi nhậu, Tú giật mình rồi tự nhiên hỏi mình không phải con Đức sao. Nhưng khi anh chưa bao giờ hiểu ra sự tình, anh chỉ biết quay mặt đi để giấu đi những giọt nước mắt. Bà nghĩ đến hoàn cảnh đói khổ, nhưng nhà bà lại có thêm con ăn, nhưng dù vậy, con bà cũng có vợ. Tình yêu của ông dành cho mọi người lớn dần, ông yêu con trai mình, ông yêu cả cô con dâu của mình. Ông lão nhìn người phụ nữ si tình với chiếc áo rách mà chạnh lòng. Ông già chỉ biết nói “Thôi, anh em đã có duyên với nhau, cũng sướng”. Tình yêu của anh thể hiện rất rõ khi anh chấp nhận cô và khuyên hai người không ai nghèo, không ai nghèo, không ai khó ba đời, chỉ cần thời gian qua đi, anh chị sẽ có một mái nhà bình yên. Anh không phụ tình thương con, nhân hậu, giỏi giang mà còn là động viên để hướng con đến một tương lai tươi sáng hơn.

Và thế là ba con người trong nạn đói đó đã yêu thương nhau, đồng cảm với nhau và cùng nhau vượt qua nạn đói. Đêm tân hôn của đôi trẻ thật sự không có ấm rượu, ngày cưới không có nồi đồng, chén ngọc, mâm xôi to béo, ché rượu tim. Tất cả chỉ còn là những tiếng la hét của những ngôi nhà chết chóc và những tiếng la hét.

Không chỉ đẹp về tình người mà còn thấp thoáng niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Hãy tin rằng anh ấy có thể xuất hiện vào sáng hôm sau. Sáng nay khi mọi người thức dậy thật khác với những buổi sáng bình thường. Tỉnh dậy, không ai bảo ai một mình làm việc nhà, cuối cùng tỉnh dậy, nhà cửa hôm nay gọn gàng sạch sẽ. Chiếc giường khô cong đã được rút hết nước, vợ anh đang giúp mẹ vợ lau nhà, quét cỏ ngoài vườn. Hình như anh đã có trách nhiệm và gia đình nhỏ của mình rồi. Bữa sáng được sắp xếp là cháo với nước nhưng họ vẫn ăn rất vui vẻ. Vừa ăn, Tú còn nói chuyện tương lai với hai đứa con. Anh tính khu vườn kia sẽ nuôi một đàn gà, chúng bàn tính tương lai với niềm tin đổi đời. Đang vui thì cháo đã cạn, bà cụ Tứ bưng ấm chè đến, vợ chồng Tràng giật mình nhưng ăn miếng “chè” cũng phải cố vì đắng quá. Chưa đến mức phải ăn cám, có cám mà không có cám. Rồi tiếng trống thuế vang lên, Thi kể chuyện bọn cướp xe bắt mồi giặc với lá cờ đỏ sao vàng. Kể từ đó, trong đầu Trang luôn phấp phới lá cờ đỏ sao vàng. Có lẽ đó là con đường mà Trang đang dần giác ngộ. Nhà văn Kim Lân đã mở ra một con đường tương lai mới cho nhân vật của mình.

Qua đây có thể khẳng định dù trong nạn đói kém nhân dân ta vẫn đùm bọc thương yêu đùm bọc lẫn nhau, lá lành đùm lá rách. Trước khi thực sự đau khổ và chết đi, họ không ngừng nhìn về tương lai với niềm tin đổi đời và quả thật ở phần cuối tác phẩm, một con đường đổi đời mới đã được thắp sáng mà tác giả muốn đề cập đến. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tượng trưng cho bản lĩnh cách mạng của dân tộc Việt Nam.

Đánh giá bài viết

Theo dõi chúng tôi www.hql-neu.edu.vn để có thêm nhiều thông tin bổ ích nhé!!!

Dustin Đỗ

Tôi là Dustin Đỗ, tốt nghiệp trường ĐH Harvard. Hiện tôi là quản trị viên cho website: www.hql-neu.edu.vn. Hi vọng mọi kiến thức chuyên sâu của tôi có thể giúp các bạn trong quá trình học tập!!!

Related Articles

Back to top button